Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Thế nào là lỗi đức bác ái Kitô giáo?

Thế nào là lỗi đức bác ái Kitô giáo?

Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, viết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”( 1Cr 13:13).
 
 Sở dĩ ngài nhấn mạnh về Đức ái như vậy,  vì căn cứ vào lời  Giêsu đã truyền cho các môn đệ và mọi người chúng ta phải  tuân giữ và thực hành hai giới răn quan trong nhất là mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” và “yêu người thân cận như chính mình”(Mc 12:30-31).
 
 Thật vậy, yêu người khác như yêu chính mình, đó là đức ái Công giáo. Đó là đức mến mà Thánh Phaolô đề cao hơn cả đức tin và đức cậy. Điều này thật chí lý vì nếu chúng ta tin có Chúa, yêu mến Chúa và hy vọng có ngày được gặp Chúa nhãn tiền thì chúng ta phải thể hiện niềm tin và cậy trông đó bằng đức ái nồng nàn. Nói khác đi, đức ái là thước đo đức tin và đức cậy. Nhưng làm thế nào để chứng tỏ chúng ta thực sự tin và yêu mến Chúa?
 
 Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Jn 14:21).
 
 "Có và giữ" nghĩa là biết những giới răn của Chúa và thực hành những giới luật đó để minh chứng niềm tin và lòng mến Chúa thực sự.
 
 Như vậy, thực hành tốt hai điều răn quan trọng nhất của Chúa về yêu mến Người và yêu tha nhân  là  cách biểu lộ hùng hồn nhất về niềm tin và yêu mến Chúa thực sự.
 
 Trong giới hạn bài  này, tôi xin được trình bày đại cương về giới luật yêu mến tha nhân như yêu chính mình và những lỗi phạm đến điều răn quan trọng này.
 
 Yêu mến người khác như yêu chính mình trước hết có nghĩa là mình ước muốn những gì tốt đẹp, hữu ích cho mình thì mình cũng phải mong muốn và làm những việc ấy cho người khác. Mình muốn được cơm no áo ấm, có những  phương tiện vất chất tối thiểu cần thiết để sống xứng đáng cương vị làm người thì cũng phải mong muốn và giúp người khác có được những nhu cầu cần thiết đó. Mình muốn danh dự, tiếng tốt cho mình thì cũng có bổn phận phải tôn trong danh dự và tiếng tốt của người khác như vậy. Nói khác đi, nếu mình không muốn bị hiểu lầm bị vu cáo những điều xấu thì cũng không bao giờ được phép gây ngộ nhận cho ai hoặc vô tình hay cố y bêu xấu ai vì bất cứ lý do gì. Sau hết, mình muốn được thăng tiến về mặt trí thức và siêu nhiên, thì cũng phải quan tâm đúng mức đến lợi ích tinh thần và thiêng liêng của người khác. Có như vậy mới thực sự là yêu người như Chúa dạy.
 
 Nói tóm lại, dùng thước bác ái để đo mình thế nào thì cũng phải dùng chính thước đó mà áp dụng cho người khác như vậy. Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người đã không sống bác ái hoặc tệ hơn nữa là đã lỗi phạm nhân đức này cách nặng nề.
 
 Cái tội lớn nhất của con người ngày nay ở khắp mọi nơi trên thế giới là tội dửng dưng (indifference) trước sự đau khổ của người khác. Đau khổ về thể lý như đói nghèo, tù đày, bị đánh đập, hành hạ thân xác… Đau khổ về tinh thần như bị khinh chê, kỳ thị, lăng mạ, sỉ nhục, bị bêu xấu trong công luận. Gây cho người khác những đau khổ này hoặc dửng dưng khi thấy người khác phải chịu những đau khổ đó đều lỗi phạm đức ái mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải tuân giữ để được vào Nước Trời, là Vương Quốc của công bình, thánh thiện, và yêu thương. Có người đã nại lý do muốn sửa lỗi của anh chị em để giúp họ cải tiến. Thiện chí này rất tốt và phù hợp với Phúc Âm nhưng phải thi hành đúng với tinh thần mà Chúa Giêsu đã dạy trong Phúc Âm Thánh Matthêu như sau:
 
 “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.
 
Nếu nó chịu nghe anh,thì anh đã được món lợi là người anh em mình.Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào hai hoặc ba chứng nhân.Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”(Mt 18:15-   ).
 
 Như vậy, chỉ vì động cơ  bác ái thúc đầy mà ta muốn sửa lỗi người khác để giúp họ trở nên tốt hơn, chứ không vì một lý do nào khác.
 
 Nghĩa là, phải đoan chắc rằng vì bác ái của Phúc Âm, vì thiện chí muốn giúp cho anh chị em mình nên hoàn thiện mà phải khôn ngoan sửa lỗi cho người khác để họ biết sống đẹp lòng Chúa .
 
 Việc này hoàn toàn khác với mọi ý đồ muốn bêu xấu ai  vì lầm lỗi nào đó. Người ViệtNam hay mắc một tội thông thường là tội “nói hành nói tỏi người khác”. Chuyện gì không hay không tốt về người khác thường được loan truyền mau lẹ trong cộng đồng, giữa những người quen biết nhau. Chi tiết của câu chuyện được rỉ tai cứ gia tăng thêm từ người này sang người khác. Cuối cùng chỉ có nạn nhận chịu mọi thiệt thòi, tai tiếng bất công. Như thế, loan truyền tin cho  người khác biết chuyện  không tốt của ai  mà hậu quả làm mất danh dự, tiếng tốt của người ấy là chắc chắn lỗi đức bác ái Công giáo.
 
 Lại nữa, công khai bêu xấu ai, hoặc lợi dụng truyền thông, báo chí để cố ý diễn dịch sai ý kiến của người khác hầu dành thắng lợi cho phe nhóm của mình cũng là  lỗi đức ái Kitô Giáo. Nghĩa là, không phải trách nhiệm của mình, nhưng chỉ vì muốn bêu xấu ai đó để thủ lợi cho phe nhóm mình  nên đã tìm mọi cách để loan tin cho người khác biết chuyện kín hay xuyên tạc lời nói hoặc tư tưởng của người thứ ba là phạm tội cả về mặt pháp lý lẫn đạo đức Kitô Giáo. Tuyệt đối không có cơ sở luân lý, Kinh Thánh hay tín lý nào cho hành vi bêu xấu làm nhục người khác ở trong và ngoài Giáo Hội. Không ai có quyền tự dành  cho mình trách  nhiệm tố cáo để bôi nhọ người khác trước công luận xã hội dù núp dưới với bất cứ danh nghĩa nào. Phải tôn trọng danh dự, đời tư,  tính mạng và  tài sản của người khác như chính của mình. Đây là giới luật bác ái và công lý đòi buộc mọi công dân và giáo dân phải tuân giữ khi sống trong xã hội và Giáo Hội.
 
 Tóm lại, bác ái không chỉ giới hạn trong việc cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, kẻ rách rưới áo quần. Hơn thế nữa, Bác ái đòi hỏi phải yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình, vì mọi người đều là hình ảnh của Chúa và là anh chị em với nhau.
 
 Vậy nếu không yêu thương, tôn trọng được người anh em mà chúng ta trông thấy, gặp gỡ thường ngày trong cuộc sống thì làm sao chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng chúng ta không nhìn thấy được trong cuộc sống ở đời này?
 
LM. Px. Ngô Tôn Huấn

 Nguồn: conggiao.info

Trách nhiệm của cha mẹ khi cưới vợ khác cho con

Trách nhiệm của cha mẹ khi cưới vợ khác cho con
 
Có một đôi vợ chồng kia, có làm phép Hôn phối, sau khi ăn ở với nhau được một người con thì người vợ bỏ đi vì làm đổ nợ. Người chồng sau một thời gian lại cưới một cô vợ khác và chỉ làm phép đời mà thôi, vì hôn phối trước theo phép đạo vẫn còn. Như vậy nếu cha mẹ của anh này chấp thuận cho anh ta cưới vợ khác, vì người vợ trước đã ra tòa ly hôn, thì cha mẹ của anh này có mắc lỗi không và có được rước lễ không ? (T.T.H.H., Giáo xứ Tân Bình).

Trả lời

 Mặc dù người chồng đã ra tòa án dân sự ly hôn với người vợ trước, nhưng anh vẫn còn đang bị ràng buộc bởi dây hôn nhân theo phép đạo với người vợ trước, cho nên mắc ngăn trở và không thể kết hôn theo luật Giáo Hội với người vợ sau được (x. GL. điều 1085 §1). Dù người chồng có giấy đăng ký kết hôn theo luật đời với người vợ sau, nhưng cả hai người không phải vợ chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội. Người chồng ly dị và tái hôn thì rõ ràng là vi phạm Điều răn của Chúa, sống trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên (x. GLHTCG số 2384).

1. Trách nhiệm của cha mẹ: Có mắc lỗi không?

 Trong trường hợp cha mẹ của anh chấp thuận cho anh cưới vợ khác thì không thể không mắc lỗi đồng phạm, nhưng mức độ nặng hay nhẹ tùy thuộc vào thái độ chấp thuận tích cực hay tiêu cực. Theo “Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo”, số 1868, tội là một hành vi cá vị, nhưng chúng ta có trách nhiệm trong các tội người khác phạm, khi chúng ta cộng tác vào các tội đó, bằng cách:

 “- tham gia một cách trực tiếp và tự nguyện vào các tội đó;
 - ra lệnh, xúi giục, khen ngợi hoặc tán thành những tội đó;
 - không tố cáo hoặc không ngăn cản các tội đó, khi có bổn phận phải can ngăn;
 - che chở những người làm điều xấu”.

 Nếu cha mẹ đứng ra tổ chức đám cưới cho con trai, thì chắc chắn sẽ mắc lỗi nặng hơn với việc chỉ chấp thuận cho con muốn làm gì thì làm. Dù sao đi nữa, Giáo Hội cũng lưu ý chúng ta rằng: “Mặc dầu chúng ta có thể phán đoán một hành vi nào đó tự nó là một lỗi phạm nặng, chúng ta vẫn phải phó thác việc phán xét các nhân vị cho sự công bằng và lòng thương xót của Thiên Chúa” (GLHTCG số 1861).

2. Và có được rước lễ không?

 Người ta thường hiểu việc có được rước lễ hay không ở đây là có bị vạ tuyệt thông (bị dứt phép thông công) hay không. Trong Bộ Giáo Luật hiện hành, không có điều khoản nào quy định phạt vạ tuyệt thông ngay tức khắc (nghĩa là cấm xưng tội rước lễ do chính sự kiện phạm tội) cho cha mẹ chấp thuận cho con cái ly dị và tái hôn. Tuy nhiên, Đức Giám mục giáo phận có quyền ra hình phạt vạ tuyệt thông đối với giáo dân trong giáo phận của mình (x. Điều 1315). Nếu Giáo phận nào có thiết lập hình phạt vạ tuyệt thông đối với loại tội phạm này thì lúc đó hình phạt mới được áp dụng. Thông thường, tùy theo mức độ tội nặng hay nhẹ trong việc cộng tác vào việc phạm tội của người con, mà cha mẹ có được rước lễ hay không. Nếu cha mẹ có tội nặng thì chắc chắn không được đi rước lễ. “Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ” (GLHTCG số 1385). Tuy nhiên cha mẹ đương sự cũng nên suy nghĩ điều này: không phải cứ cố tình vi phạm lề luật Chúa, gây ra gương mù gương xấu trong giáo xứ rồi đi xưng tội là xong. Hối nhân còn phải làm hết sức có thể để sửa sai (x. GLHTCG số 1459). Làm thế nào để sửa sai này đây?
 

Tác giả bài viết: Lm. LG Huỳnh Phước Lâm

Nguồn tin: gplongxuyen.org

Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo?

Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo?

LTS. Xin lưu ý: Tại VN, Ngừời dân không đựoc phép ghi lý lịch với tôn giáo "Công Giáo" mà buộc phải ghi "Thiên Chúa Giáo" hoặc chỉ đựoc phép ghi hai chữ Thiên Chúa.
 
Hỏi: Xin Cha giải thích: Đạo Thiên Chúa là gì, và khác Đạo Công Giáo như thế nào?
 
Trả lời:
 
 Trong thực tế, nhiều người đã lầm lẫn khi dùng cụm từ “Đạo Thiên Chúa” hay "Thiên Chúa Giáo" để chỉ Đạo Công Giáo (Catholicism), tức là Đạo thánh mà chính Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ như phương tiện để loan truyền và mang ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi dân mọi nước cho đến ngày mãn thời gian.
 
 Đó là Đạo cứu rỗi mời gọi mọi người đón nhận để được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của Ngài.
 
 Xét về từ ngữ (terminology) thì danh xưng Đạo Thiên Chúa nghe có vẻ hợp lý vì mục đích tôn thờ Thiên Chúa là Chủ tể vạn vật và vũ trụ. Nhưng nếu đi sâu vào nôi dung thần học, thì danh xưng này không phân biệt rõ đối tượng và mục đích tôn thờ của các tín hữu có cùng niềm tin vào Thiên Chúa (God) nói chung và Chúa Cứu Thế Giêsu nói riêng. Các tín hữu này hiện đang phân tán trong các Giáo Hội, hay Đạo, có danh xưng khác nhau như sau:
 
1. Do Thái Giáo (Judaism)
 
 Do Thái Giáo, hay còn gọi là Đạo Maisen (Mosaic Religion), là Đạo tôn thờ Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel (Jacob). Ngài cũng là Đấng, qua tay ông Maisen, đã giải phóng cho dân Do Thái thoát ách thống khổ bên Ai Cập và mang họ vượt Biển Đỏ trở về quê hương an toàn. Và cũng qua trung gian ông Maisen, Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái và cho cả nhân loại ngày nay Mười Điều Răn như giao ước phải thi hành để được chúc phúc và được sống với Thiên Chúa là tình thương.
 
 Tín hữu Do Thái thuộc Đạo này cho đến nay vẫn chỉ tôn thờ một Thiên Chúa Yaweh độc nhất mà thôi (monotheism). Họ không có ý niệm gì về một Thiên Chúa Ba Ngôi (The Holy Trinity) vì họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, đã xuống thế làm Người để cứu chuộc nhân loại. Họ cũng không biết gì về Chúa Thánh Thần, mặc dù Kinh Thánh Cựu Ước có hé mở chút ánh sáng về Ba Ngôi Thiên Chúa qua trình thuật Ba người khách lạ đến thăm ông Abraham và được ông niềm nở đón tiếp dù không biết họ là ai (x. Stk 18:1-15).
 
 Cũng vì không nhìn nhận Chúa Cứu Thế Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và Phúc Âm của Người, nên Kinh Thánh của Do Thái Giáo chỉ có phần Cựu Ước mà thôi.
 
2. Công Giáo La Mã (Roman Catholicism)
 
 Công Giáo La Mã, chính là Kitô Giáo, tức là Đạo Cứu Rỗi do Chúa Kitô khai sinh với việc Người xuống trần gian làm Con Người, đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành và cuối cùng, chết trên thập giá để hoàn tất công cuộc cứu chuộc cho loài người khỏi chết vì tội.
 
 Đạo Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản thể (substance) và uy quyền như nhau. Thiên Chúa của Đạo Công Giáo là Thiên Chúa của Chúa Kitô (Christian God) và cũng là Thiên Chúa của các Tổ Phụ Do Thái. Do đó, Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo gồm cả hai phần Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), với tổng cộng 72 Sách Thánh mà Giáo Hội Công Giáo dạy tín hữu phải đọc để nuôi dưỡng đời sống đức tin nhờ nghe Lời Chúa để biết sống theo đường lối của Người.
 
3. Chính Thống Giáo
 
 Chính Thống Giáo là Nhánh Kitô Gíáo Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1054 vì một số bất đồng về tín lý, phụng vụ và quyền bính. Cho đến nay, nhánh này vẫn chưa hiệp nhất trọn vẹn được với Giáo Hội Công Giáo La Mã dù cả hai bên đã có nhiều thiện chí và cố gắng để xích lại gần nhau. Công Giáo và Chính Thống đều có chung nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) nên có chung các bí tích hữu hiệu như nhau, mặc dù vẫn chưa thể hiệp nhất được vì một trở ngại duy nhất là vấn đề quyền bình của Đấng thay mặt Chúa Kitô để cai trị Giáo Hội. Đó là quyền bính của Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Rôma, mà anh em Chính Thống chưa công nhận.
 
4. Tin Lành (Protestantism)
 
 Tin Lành là Nhánh Kitô Giáo đã ly khai khỏi Công Giáo và Chính Thống Giáo sau những cuộc cải cách (reformations) do Martin Luther chủ xướng tại Đức năm 1517, lan qua Pháp với John Calvin, Thụy Sĩ với Ulrich Zwingli.
 
 Nhưng chính nội bộ nhánh này sau đó cũng đã phân chia thành hàng ngàn các nhánh nhỏ khác nhau như Baptists, Methodists, Lutherans, Presbyterians, Episcopalians, Pentecostals, Quakers, Church of Christ .v.v Họ cũng tôn thờ một Thiên Chúa và tin Chúa Kitô là Cứu Chúa (Savior), cũng như lấy Kinh Thánh làm nền tảng cho niềm tin và sứ vụ giảng dạy (Preaching ministry), nhưng khác biệt với Công Giáo và Chính Thống Giáo về nhiều điểm căn bản liên quan đến thần học, bí tích, phụng vụ, quyền bính và Kinh Thánh (Họ giải thích Kinh Thánh theo cách hiểu riêng của họ). Thêm vào đó, cũng như Chính Thống Giáo, các nhánh Tin lành đều không công nhận vai trò và quyền bính tối cao của Đức Giáo Hoàng La Mã. Một điểm quan trọng nữa cần nói thêm là các nhánh Tin lành này đều không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession), nên họ không có các bí tích hiệu như Công Giáo và Chính Thống, trừ phép Rửa mà đa số họ có.
 
5. Anh Giáo (Anglicanism)
 
 Anh Giáo, tức nhóm Kitô Giáo đã tách khỏi Công Giáo La Mã vì sự bất mãn liên quan đến vấn đề hôn nhân của Vua Henry VIII trong thế kỷ XVI. Vua Henry này đã tuyên bố ly khai khỏi Công Giáo La Mã và tự phong làm thủ lãnh nhánh ly khai này. Nhóm này có tên chung là Anglican Communion, tức là Anh Giáo, hoàn toàn khác với Giáo Hội Anh Quốc (The Church of England) là Giáo Hội Công Giáo của nước Anh hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo La Mã (Rome).
 
 Nhưng cách nay gần hai năm, một biến chuyển mới trong liên hệ giữa Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo, là có một nhóm khá đông các tín hữu Anh giáo cũng với giáo sĩ của họ, đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Để đón mừng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm cựu Anh Giáo này, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16, ngày 09-11-2009, đã cho công bố Tông Thư "Anglicanorum coetibus" (Các tín hữu Anh Giáo) theo đó, Tòa Thánh cho phép thiết lập các Giáo Hạt tòng nhân trong ranh giới của một số Giáo Phận Công Giáo ở Anh Quốc và xứ Wales để cho các cựu tín hữu Anh giáo được cử hành các nghi thức phụng vụ và bí tích theo nghi thức của truyền thống Anh Giáo đã được Tòa Thánh phê chuẩn.

 Mới nhất, ngày 15-1-2011 vừa qua, ba cựu giám mục Anh giáo đã được tấn phong linh mục Công Giáo tại Thánh Đường Westminster, Luân Đôn. Và một trong ba tân linh mục này, cha Keith Newton, đã được cử làm Quản hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, một Quản hạt tòng nhân đầu tiên mới được thành lập ngày 15-1 vừa qua để đón nhận các cựu tín hữu Anh Giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo.



 Sở dĩ có việc truyền chức cho các cựu giám mục Anh Giáo là vì Giáo Hội Công Giáo không công nhận Anh Giáo có bí tích Truyền Chức hữu hiệu, nên các cựu linh mục và giám mục Anh Giáo, nếu muốn, đều phải xin thụ phong linh mục Công Giáo trước và sau này, có thể có linh mục được chọn làm giám mục Công Giáo.
 
 Lại nữa, vì Anh Giáo cho các linh mục và giám mục của họ kết hôn, nên sau khi được thụ phong linh mục Công giáo, họ vẫn được phép tiếp tục sống với vợ con.
 
6. Đạo Hồi (Islam)
 
 Ngoài ra, còn phải kể thêm một tôn giáo lớn nữa, cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi, do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622.
 
 Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa = (Submission to the will of God)” nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái, Công Giáo và các Nhánh Kitô Gíáo nói trên về nhiều mặt. Thí dụ họ chỉ coi Chúa Giêsu là một người thường, một tiên tri như Abraham, Moses, Noah v.v và kinh thánh của họ là kinh Koran.

 +++


 Như vậy, không có đạọ nào gọi là Đạo Thiên Chúa (Deism) đúng nghĩa với danh xưng này cả vì trong thực tế, tất cả các Nhánh hay Đạo mang các danh xưng riêng biệt trên đây đều tôn thờ Thiên Chúa (God). nhưng với nội dung thần học khác nhau, kể cả khác biệt về phương thế thể hiện sự tôn thờ đó (Liturgy).
 
 Nói khác đi, các Nhánh Kitô giáo và Do Thái giáo nói trên, tuy cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng rất khác nhau về quan điểm thần học, bí tích, phụng vụ, mục vụ và quyền bình. Do đó, không thể gọi Đạo Công Giáo là Đạo Thiên Chúa cách chung được vì như vậy, sẽ lẫn lộn với các đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều điểm như đã nói trên đây.
 
 +++


TẠI SAO PHẢI GỌI KITÔ GIÁO LA MÃ LÀ ĐẠO CÔNG GIÁO?
 
 Để trả lới câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại từ đầu Thiên Chúa (God) chỉ tỏ mình ra cho dân Do Thái và chọn dân này làm dân riêng mà thôi: “Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta” (Xh 19:5).


 Như thế, trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm Con Người, chỉ có dân Do Thái được biết Thiên Chúa Yahweh là Cha các Tổ Phụ của họ, là Đấng đã giải phóng họ và ban cho họ Mười Điều Răn làm Giao ước (Covenant) mà thôi. Ngoài Dân Do Thái ra, các dân khác đều là dân ngoại (gentiles) vì không biết Thiên Chúa Yahweh của dân Do Thái.
 
 Nhưng sau khi Chúa Giêsu giáng sinh ở Bethlehem, Chúa đã tỏ mình ra cho các dân ngoại qua ánh sao lạ ở Phương Đông, mời gọi ba đạo sĩ dân ngoại đầu tiên đến thờ lạy Chúa (x. Mt 2:1-12). Sự kiện này đã nói lên nét phổ quát (universality) của ơn cứu độ. Nghĩa là ơn này được dành cho hết mọi dân tộc, không chỉ riêng cho dân Do Thái. Vì thế, trước ngày về trời Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19).
 
 Đây là lý do vì sao Đạo của Chúa Kitô (Christianity) được gọi là Đạo Công Giáo vì mục đích phổ quát của ơn cứu độ mà Chúa đã mang đến cho nhân loại qua Hy Tế thập giá của Người. Vì thế từ ngữ “Công giáo” ở đây có nghĩa là chung, là phổ quát (universal), dành cho hết moi người không phân biệt màu da, tiếng nói và văn hóa.
 
 Như vậy từ ngữ “công giáo” (catholicam = catholique = catholic…..) không hề có nghĩa là công cộng (public) như có người không hiểu biết gì, nhưng đã có ác ý dịch ẩu Đạo Công Giáo sang tiếng Anh là Public Religion. Dịch như vậy cũng tương tự như người mới học tiếng Anh đã tự ý dịch nước đá (ice) là “water stone”!
 
 Cũng vậy, nếu biết tiếng Anh đủ và có đọc sách vở viết bằng Anh ngữ về các thuật ngữ (terms) của Kitô Giáo, thì tội tổ tông, người Anh Mỹ gọi là Original sin, người Pháp gọi là Péché originel, người Tây Ban Nha gọi là Pecado original, chứ không ở đâu có từ ngữ “father’s sin” để chỉ tội tổ tông cả. Dịch kiểu này thì người Anh Mỹ không thể nào hiểu đúng ý của người dịch được.
 
 Tóm lại, danh xưng phải chính xác về các vần đề tôn giáo để tránh hiểu lầm hay xuyên tạc mục đích. Cụ thể, Đạo Công Gíao (Catholicism) là Đạo mà chính Chúa Giêsu đã khai sinh và giảng dạy để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho mọi người thành tâm thiện chí muốn đón nhận để được cứu rỗi và sống đời đời. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất do Chúa Kitô đã thiết lập để tiếp tục rao giảng và chuyển chở ơn cứu độ đó đến cho những ai muốn tiếp nhận. Giáo Hội này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng là Người duy nhất nối tiếp Sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô, với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giám mục trong toàn Giáo Hội.
 
 Đó là những nét đại cương để phân biệt Đạo và Giáo Hội Công Giáo với các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.
 
Linh mục Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

  Nguồn: conggiao.info

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013

GIÁO HỌ XIMON HOÀ


Giáo họ Ximon Phan Đắc Hòa (Bình Hải II): Kp 5 và 7 P. Lạc Đạo, trong khung đường Hàn Thuyên - Ngư Ông - Ngô Sĩ Liên : 325 gia đình, 1149 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 10-12.

Simon Phan Ðắc Hòa (1787-1840)


Simon Phan Ðắc Hòa, Sinh năm 1787 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Giáo dân, Y Sĩ, bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/12.

"Ai có thể làm chúng tôi xa lìa được lòng mến Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, cùng khổ, đói rách, bắt bớ, gươm giáo" (Rm.8,35).

Cái khốn khổ mà Simon Hòa phải chịu kể từ khi bị bắt vì đức tin cũng tương tự như thế : Hơn 20 lần bị tra khảo rất dữ dội. Lúc thì bằng đòn vọt, khi thì bằng kìm lạnh, lúc khác thì bằng kẹp nung lửa… khiến da thịt ông bị thối rữa vì các vế thương dầy mủ máu. Rồi trách nhiệm tình thương đối với gia đình : người vợ và 12 đứa con, có đứa mới sanh được vài tháng, chưa được diễm phúc thấy mặt cha một lần.

Thế nhưng ngay trong trường hợp này, chân lý của các vị tử đạo vẫn luôn luôn đúng : Đối với các ngài, đau thương không phải là dấu chỉ của thất bại. Đau thương cũng không phải là mục đích, nhưng đau thương chính là thử thách các chứng nhân phải vượt qua, để có thể đạt được chân phúc vĩnh cửu. Và thái độ của Simon Hòa cũng như thái độ chung của các vị tử đạo vẫn là: "Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng yêu mến chúng ta" (Rm.8, 37).

Phan Đắc Hòa sinh trong một gia đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Mông thôn, tỉnh Thừa Thiên năm 1774. Thuở bé, cậu tên là Thu. Cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lưỡng Kim, sau đó đến giúp một gia đình Công Giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng Trị.

Sống với người Công Giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo mới này, cậu Hòa đem lòng cảm mến và xin phép mẹ cho mình theo học lớp giáo lý và gia nhập đạo. Khi ấy cậu mới chỉ là một thiếu niên 12 tuổi, cậu đã chọn thánh Simon làm bổn mạng. Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốn theo sát, phục vụ Chúa Kitô trong đời tu trì. Cậu đã vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các cha bề trên, Simon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa lòng đời.

Tuy không đạt được ước mơ, Simon Hòa vẫn thường xuyên liên lạc với chủng viện và các cha Bề trên. Sau khi lập gia đình và trở thành cha của 12 người con, Simon Hòa cố gắng chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là ngày gương sáng tiêu biểu cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ : "Lương y như từ mẫu". Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân chúng đồn đãi với nhau đến với ông rất đông. Nhờ đó ông có nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo khó. Nếu dư dả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện, xây cất thánh đường…

Với đời sống đạo đức, ông lang y Hòa được đề cử làm Trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thực thi chức năng một cách tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dỗ dành, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc rượu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy. Thế nhưng ai cũng yêu mến chứ không oán ghét gì ông, bởi họ biết ông làm thế vì thương yêu họ và vì trách nhiệm, chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Simon Hòa còn sẵn sàng bênh vực, giúp đỡ người già nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa của phúc thật tám mối, nhận ra hình ảnh Chúa Kitô nơi người khác, nhất là người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống vực một người nằm kiệt sức bên đường, vác lên vai, đưa đến trạm canh, rồi cho người đem cơm nước để nuôi kẻ bất hạnh.

Khi vua Minh mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, Ông Trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình : ông sẵn sàng cho các linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết rằng việc chứa chấp này đe dọa đến tính mạng của mình, cũng như của gia đình. Đức cha Cuénot Thể cũng trọ một thời gian tại nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục có nơi trú ẩn. Nếu nhà mình không ổn, ông gởi các nhà ở nơi tương đối bình an hơn. Tối ngày 13.4.1840, khi đang trên thuyền Đức cha De la Motte Y đến làng Hòa Ninh, thuyền ông bị các quan phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Qủang Trị giam hai tháng, và cuối cùng điệu về Huế.

Suốt thời gian bị giam, lưoưng y Hòa không những đã giúp đỡ anh em bạn tù bằng việc bốc thuốc chữa bệnh, ông còn khuyến khích họ trung thành với Chúa đến cùng. Cũng chịu khổ hình như mọi tù nhân, có khi còn hơn nữa, nhưng ông Simon vẫn kiên vững niềm tin. Các lần đòn đánh với vô số vết thương không làm ông nản chí, trái lại, ông còn lấy làm vui thỏa vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh.

Ông Simon Hòa bị tra khảo đến 20 lần, có lẽ vì các quan tưởng dùng bạo lực, ông sẽ phải cung khai tung tích các vị thừa sai, nhưng "dã tràng xe cát biển đông". Họ đã không đạt được ý nguyện, lại còn phải nghe ông thuyết giảng về chân lý đạo. Thế là họ trả đũa bằng đánh đập, bằng kìm kẹp và tra tấn dã man… cho tới khi người thày thuốc từ bi gục ngã không thể gượng dậy nổi. Nhưng niềm tin của lương y sĩ Hòa không thể ngã gục. Ông can đảm chịu mọi hình khổ đớn đau. Hơn nữa, ông quyết tâm hiến dâng mạng sống mình để làm chứng về đạo, dù phải hy sinh những điều thân thương qúi báu nhất đời. Khi các con đến thăm, ông khuyên nhủ :

"Cha yêu thương các con và hắng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yeu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha xin vâng trọn".

Quả thật nỗi lòng y sĩ Simon Hòa lúc đó:

"Yêu kính Chúa, nặng tình nhà,

Trăm cay nghìn đắng, vẫn cam một lòng".

Năm 1840, vua Minh Mạng châu phê án xử trảm quyết, bêu đầu ba ngày. Khi điệu ông Hòa đi xử, các quan còn cố bắt ông quá khóa, dụ dỗ ông bỏ đạo, hay ít là cầm lấy ảnh quẳng đi để ông được tha, nhưng ông vẫn một lòng kiên quyết tuyên xưng niềm tin của mình.

Vị lương y lang Nhu Lý đã vượt qua thử thách cuối cùng. Ông đã toàn thắng trong niềm tín thác vào Thiên Chúa ngày 10.12.1840 tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa.

Đức Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Nguồn từ thư viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.

Simon Phan Ðắc Hoà y sĩ
Sinh Giáp Ngọ (1774) địa chỉ Thừa Thiên
Lương y nổi tiếng trong miền
Mang danh chữa bệnh dùng thuyền chở cha

Quan bắt được hỏi tra giam huyện
Tại nơi đây thực hiện tấn tra
Cha con cùng nhốt một nhà
Tay chân bị trói thật là thảm thương

Rồi sau giải tỉnh đường Quảng Trị
Tại nơi đây lại bị cổ gông
Nhà giam tăm tối hôi nồng
Khoảng chừng hai tháng rất đông người tù

Ở Quảng Trị toàn khu giải Huế
Vua Minh Mạng thuận để xử ông
Các quan dụ để lập công
Bắt ông quá khóa, tha không, thưởng tiền

Nhưng ông vẫn trung kiên bền đỗ
Luôn tuyên xưng thách đố tới cùng
Quan quân thất bại nổi xung
Pháp trường trảm quyết phải dùng tới gươm

Ơn tử đạo, Thiên Ðường lên thẳng
Cuối cùng ai kẻ thắng người thua
Nước Trời chẳng thể bán mua
Chứng nhân kiên vững Chúa đưa về trời

Thi hài an táng nơi hành xử
Sau cải lên đưa gửi Paris
Trong phòng sổ sách có ghi
Tấm khăn thấm máu đem đi đền thờ

Một vài nét đơn sơ tiểu sử
Simon Hòa nghĩa cử chân thành
Lương y cứu chữa lẹ nhanh
Ông bà sinh hạ trưởng thành đông con

Ông Trùm đạo vuông tròn bác ái
Giúp đỡ người chẳng ngại quản công
Dân làng quý mến nhất ông
Thánh Ðường kiến thiết, của, công, nhiệt tình

Kẻ biếng nhác đệ huynh giải thích
Bọn rượu chè xích mích khuyên can
Người nằm liệt dưới vệ đàng
Ðiếm canh mang đến sẵn sàng thuốc men

Năm Canh Tý (1840) thân quen tử đạo
Thắng thế gian tàn bạo quan quân
Thiên đàng Chúa đã dành phần
Suy tôn Canh Tý (1900) ở gần Chúa Cha

Lời bất hủ: Ông khuyên nhủ các con đến thăm ông trong tù: "Cha yêu thương các con, và hằng chăm sóc các con, nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yêu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha phải chịu khổ, cha xin vâng trọn".

GIÁO HỌ ANRE TRÔNG


Giáo họ Anrê Trần Văn Trông (Bình Hải I) : Kp 5 P. Lạc Đạo, trong khung đường Hàn Thuyên - Ngư Ông - Pasteur : 286 gia đình, 1077 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 28-11.

Anrê Trần Văn Trông (1814-1835)


Anrê Trần Văn Trông, sinh 1814 tại Kim Long, Huế; chết 28 tháng 11, 1835 tại An Hòa, Huế. Anrê Trông là một binh sĩ trẻ tuổi, một thợ dệt tơ của nhà vua, và thuộc Hội Thừa Sai Balê. Khi triều đình khám phá ra sự liên hệ này năm 1834, ngài bị bắt, bị truất hết chức tước, và bị giam vào tù. Mẹ của ngài có mặt khi ngài bị xử tử và đã nhận lãnh thủ cấp của con trong lòng. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ 28 tháng 11.
Trong vòng tay người mẹ.

Trong hành tích thánh Anrê Trần Văn Trông, người quân nhân xứ Huế, ta thấy nổi bật lên chân dung của một bà mẹ. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII ca tụng bà đã thể hiện lòng can trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo". Như Đức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến Người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng.

Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan : "Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái dầu của con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đêm về mai táng trong nhà.
Tuổi xuân ước mơ.

Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà, thế mà năm 15 tuổi, người cha lại mất sớm, khiến gia đình lâm cảnh mẹ góa con côi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông đành giã từ sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Đúc dệt tơ cho hoàng gia. Là người ngay thật, cậu không ăn bớt của công, luôn chăm chỉ làm việc và ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.

Sử gia Rodriguez đã diễn tả tâm trạng của cậu qua những vần thơ sau (Martirologie III, pp. 158 – 159):

"Ôi êm đềm cảnh thiên nhiên trầm lặng,
Dưới ngàn cây râm mát thoảng hương hoa,
Nước lung linh nghe thanh thản tâm hồn,
Sông in dáng bóng non xanh xanh biếc…"

Nhưng cuộc đời êm ả đó không kéo dài được lâu mãi. Đồng lương ít ỏi của người thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình. Năm 20 tuổi, Anrê Trông đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

Xông vào cuộc chiến

Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Đúc đến "ra mắt" quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man… lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử ngay.

Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anrê sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Đức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món qùa tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quý mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.

Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trông liền xin viên cai ngục và được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to "Tâm sự" và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho siết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quý", anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành : "Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa: "Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Nỗi lòng hai mẹ con

Sau một năm tù, không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28.11.1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".

Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt : "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.

Khi được con cho biết không vướng gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. đến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói : "Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm". Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.

Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, dầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lắp lại : "Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !".

Ngày 27.5.1900, Đức Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo xưa trên đỉnh Can-vê.

Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Trường thi tử đạo

Anrê Trần Văn Trông binh sĩ
Sinh Giáp Tuất (1814) địa chỉ Kim Long
Gia đình nghèo khó trắng trong
Người cha mất sớm phải vòng gian nan

Cậu bỏ học lo toan giúp mẹ
Theo bà con mau lẹ học nghề
Dệt tơ thợ đúc say mê
Gia công cơ sở thuộc về nhà vua

Cậu chăm chỉ chẳng ưa lêu lổng
Chiều đi câu bãi trống Sông Hương
Làm nghề dệt ít đồng lương
Trông từ giã mẹ lên đường tòng quân

Sau tám tháng phong trần quân ngũ
Bị Triều Ðình chụp mũ trái sai
Ai người Công giáo phải khai
Trông không sợ hãi ngày mai nhận liền

Bạn đồng đội trong miền kéo tới
Quan loan truyền lệnh mới vua ban
Quân nhân đều phải sẵn sàng
Bước qua Thánh giá khỏi sang lý hình

Mười ba người chiến binh Công giáo
Ðều tuyên xưng mạnh bạo đức tin
Quan tra tấn cho đứng nhìn
Mười hai bỏ cuộc sợ kìm kẹp gông

Còn trụ lại Trần Trông anh dũng
Qua Thánh giá Trông cũng co chân
Tấn tra anh rất nhiều lần
Nhốt anh vô trại lãnh phần khổ đau

Cho thời hạn năm sau mới xử
Anh cho là Chúa thử lòng mình
Luôn luôn sốt sắng nguyện kinh
Tâm hồn vững mạnh Thánh Linh hộ phù

Anh chia sẻ bạn tù lính gác
Ðược tiếp quà chia chác đệ huynh
Lính canh trong chốn ngục hình
Cũng đều quý mến nghĩa tình giúp anh

Viên cai ngục đã dành ưu đãi
Cho về nhà có phái lính theo
Cha Ngôn ngồi ở thuyền chèo
Anh Trông quỳ xuống ngước theo nhìn trời

Lãnh phép lành nói lời tha tội
Anh xin rước lễ vội về nhà
Niềm vui hội ngộ thiết tha
Mẹ con mừng rỡ như là tái sinh

Một năm nhốt tính tình không đổi
Anh Trần Trông thúc hối lý hình
Tháo gươm đón nhận hy sinh
Anh nhờ đưa hộ mẹ mình chiếc gông

Làm kỷ niệm khi trông thấy nó
Là mẹ hiền sẽ ngó thấy con
Chiêng cồng vang tiếng kêu giòn
Cùng hai trộm cướp đầu con lìa mình

Lòng dũng cảm hy sinh tử đạo
Năm Kỷ Mùi (1835) loan báo hồng ân
Trao thủ cấp con, mẹ cầm
Vừa hôn vừa khóc thì thầm tạ ơn

Bà đã bọc giản đơn vạt áo
Trên đường về mếu máo khóc thương
Chôn con chính giữa từ đường
Trong nhà ngôi mộ xác xương con mình

Ai hiểu thấu được tình mẫu tử
Khi con mình bị xử chém đầu
Hồng ân Thiên Chúa nhiệm mầu
Suy tôn Canh Tý (1900) lên chầu Thiên nhan

Lời bất hủ: 13 quân nhân nhận mình có đạo, nhưng không chịu được cực hình, 12 lính đã đầu hàng, còn lại một mình Anrê Trông vẫn một lòng trung kiên không quá khoá. Khi sắp bị xử án, anh Trông gặp người anh họ, anh nói: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo, rồi nói tiếp: Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".
Bà mẹ chờ đón con trên đường đi xử, gặp con bà chỉ hỏi một câu vắn: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay cho". Bà theo con đến pháp trường. Khi lính chém đầu Anrê Trông, bà kêu lớn trước mặt quan: "Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi". Nói xong bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đem về mai táng trong nhà.



GIÁO HỌ GIUSE THỊ


Giáo họ Giuse Lê Đăng Thị (Tam Hiệp): P. Đức Nghĩa, Kp 1,2,3 P. Lạc Đạo, Kp 1,2,3 P. Đức Thắng : 195 gia đình, 508 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 24-10.

Giuse Lê Ðăng Thị (1925-1860)


Giuse Lê Ðăng Thị, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.

Cùng bạn về trời

Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê Đăng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một gócnhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay (24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần". Thế là ông có một người bạn đồng hành với mình vào quê hương vĩnh phúc trên Trời.

Giuse Lê Đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội. Lớn lên anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.

Bão tố và niềm tin.

Vua Tự Đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa được thi hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công Giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. "những quan nào có đạo (theo tà đạo), dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều đình theo tà đạo. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng…". Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. "Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu".

Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây được áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu.

Cuối tháng hai, ông phải ra tòa cùng với 31 quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo. Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vị gìa yếu, còn lại 10 người bị thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình giam hậu.

Riêng ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: "Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày".

Xứng danh huynh trưởng

Suốt thời gian trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, cam đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và bị đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các bạn tù lo lắng lớn nhất của mình. ông nói : "Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi ! Chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".

Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thày giảng cũng lén vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau : "Lê Đăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu".

Vạn phúc

Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo". Lý hình quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế - Huế.

Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Nguồn từ tu viện Đa Minh
Trường thi tử Đạo.

Lê Ðăng Thị sinh năm Ất Dậu (1825)
Tại Kẻ Văn Phú Hậu miền Trung
Gia đình binh nghiệp ung dung
Võ quan tài giỏi tin cùng giáo dân

Khi chiếu chỉ có phần gay gắt
Lê Ðăng Thị sắp đặt phục viên
Ðơn xin bệnh hoạn đưa lên
Cấp trên chấp nhận về liền Nghệ An

Thêm chiếu chỉ liên can toàn quốc
Ai trốn chui bắt được tố ra
Ðăng Thị có kẻ ghét mà
Lên quan tố giác trước tòa quân nhân

Thị bị bắt về phần lẩn trốn
Trong số này có bốn bạn thân
Giải về Quảng Trị Trung Phần
Ðể quan xét xử tội nhân ra tòa

Ông Ðăng Thị nhận là Chưởng vệ
Rõ đầu đuôi sự thể xin ra
Kitô hữu đúng thật mà
Giải ông về Huế rồi là tống giam

Cùng đồng bạn lệnh ban xử giảo
Ngồi trong tù anh thảo bức thư
Nghĩ rằng còn gặp nữa ư
Thương em anh nhớ giã từ các con

Ở trong ngục cấp còn cao nhất
Ông Ðăng Thị, chân thật sẻ chia
Trung thành can đảm nọ kia
Cấp cao gông nặng, mũ hia dữ đòn

Tuy tuổi trẻ không còn sung sức
Lắm cực hình đau tức lâm nguy
Tâm tình với bạn thầm thì
Chúa cho tôi sống để đi pháp trường

Sợ bệnh hoạn dở dương chết sớm
Chắc vì tôi mắc vướng tội nhiều
Nguyện cầu xin Chúa thương yêu
Cho con ơn trọng là điều ước mong

Một Linh mục vào trong giải tội
Sau có thầy tìm lối đến trao
Máu Mình Thánh đã đem vào
Ngày mai Chưởng vệ giải giao pháp trường

Giờ phút cuối quan thường khuyên giải
Xuất giáo đi án cải xin vua
Ông Thị quan chớ giỡn đùa
Tôi trung của Chúa là Vua Nước Trời

Lính dẫn giải ra nơi để xử
Giuse Thị vẫn cứ nguyện cầu
Một Linh mục đến từ lâu
Giải tội lần chót phép mầu trao ban

Ông hô lớn Thiên Ðàng vạn phúc
Bọn lý hình tới lúc xiết dây
Chứng nhân tắt thở rồi đây
Phú Cam tổ chức tràn đầy giáo dân

Phúc tử đạo Canh Thân (1860) sử sách

Một võ quan tư cách tuyên xưng
Pháp trường cầu nguyện không ngừng
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) vui mừng Nước Cha

Ngay giáo xứ mở ra an táng
Là chứng nhân xứng đáng Giuse
Hồng ân Thiên Chúa lắng nghe
Về sau hài cốt chở che nhà dòng

(Hài cốt Giuse Lê Ðăng Thị Chưởng vệ được đặt trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế)

Lời bất hủ: Bản án của ông Cai đội như sau: "Lê Ðăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được". Y bị kết an xử giảo cuối mùa thu. Khi nghe bản án xong ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc, vạn phúc! Tôi sắp được Tử đạo".

GIÁO HỌ MATTHEU PHƯỢNG



Giáo họ Máthêu Nguyễn Văn Phượng (Thánh Đường) : Kp 4 và 6 P. Lạc Đạo, trong khung đường Trần Hưng Đạo - Ngư Ông - Pasteur - Ngô Sĩ Liên : 127 gia đình, 397 giáo dân. Lễ kính thánh bổn mạng ngày 26-5.


Thánh Matthêu NGUYỄN VĂN PHƯỢNG, Trùm Họ (1808 - 1861)

Chết Là Vận May




Giờ phút xử tử đã điểm. Lý hình chuẩn bị sẵn sàng. Bên ba người con, hai trai, một gái đang quỳ khóc lóc tiễn biệt, thánh Mattêu Phượng vẫn nói những lời tràn đầy tin tưởng. Bởi vì ngài đã được chuẩn bị từ lâu cho biến cố tử đạo này: “Các con của cha ơi, đừng khóc, đừng buồn làm chi. Cha đã gặp vận may mắn. Anh em chúng con hãy sống thuận hòa yêu thương đùm bọc nhau”.

Matthêu Nguyễn Văn Phượng chào đời khoảng năm 1808 tại làng Kẻ Lái, tỉnh Quảng Bình, con ông Nguyễn Văn Bường, quân nhân. Cha mẹ đều là người Công Giáo đạo đức. Tên gọi của ông là Đắc, trong sổ là Kế, và sau khi lập gia đình, người ta mới gọi ông là Phượng theo tên người con cả.

Tình yêu phục vụ

Mồ côi cha từ năm lên mười, hai năm sau lại mồ côi mẹ, cậu Đắc sớm phải lo tự lực mưu sinh. Anh theo học nghề thuốc với thày lang Nhu, tuy ngoại đạo nhưng tính rất tốt, đã chỉ dẫn cho anh nhiều bài thuốc quý. Dưới thời vua Minh Mạng, anh theo giúp cha Điểm suốt bảy năm liền một cách tận tụy như người con hiếu thảo. Đổi lại, như người cha ruột, cha Điểm đã mai mối cho anh cưới một thiếu nữ hiền hậu xứ Sáo Bún, năm đó anh 22 tuổi. Từ ngày ấy, anh dọn về ở với bố vợ, tức ông đội Khiêm và hành nghề y sĩ. Được vài năm, anh chuyển sang nghề buôn bán. Nói chung, anh khá thành công trong nghề mới, nên gia đình luôn được sung túc.

Thời gian thấm thoát, gia đình ông Phượng sinh hạ được tám người con. Dầu bận rộn với việc buôn bán, ông vẫn chu toàn việc giáo dục con cái, sống trọn vẹn với luật mến Chúa yêu người. Đặc biệt ông dạy bằng gương sáng. Chính ông siêng năng xưng tội rước lễ khi có thể, rồi nhắc nhở các con. Mỗi tuần ông đều thu xết thời giờ đi thăm bệnh nhân, và đến giúp đỡ bà con nghèo ở chung quanh. Cô Thủ, con gái ông, dâng mình cho Chúa trong dòng Mến Thánh Giá. Khi con cái đã trưởng thành, ông tìm nơi đạo hạnh để thông gia, và chia cho các con toàn bộ tài sản của mình, chỉ giữ lại những thứ tối cần thôi.

Năm ông 50 tuổi, vợ ông từ trần. Ông cho gọi cô Phượng, con cả, lúc đó chồng cô cũng đã qua đời, đưa các cháu về sống với ông ngoại. Toàn thể giáo hữu Sáo Bún mến phụctài năng nhân đức của ông, nên cử ông làm Trùm họ. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu linh mục, ông Trùm Phượng có nhiều cơ hội phục vụ cho dân Chúa. Nhiều trẻ em được ông rửa tội, nhiều người xin theo đạo do lời khuyên bảo của ông. Đặc biệt, ông rộng rãi tiếp các linh mục và thày giảng đến trú ngụ tại nhà mình. Nghe mọi người dự đoán trước cuộc tử đạo ông sẽ phải lãnh nhận, ông mỉm cười và tiếp tục làm việc bác ái như trước.

Ngày 02.01.1861, cha Hoan về Sáo Bún giúp mọi người chuẩn bị lễ Hiển Linh, ông trùm Phượng hân hoan mời cha về nhà mình. Không biết có ai tố giác không, mà ngay tối hôm sau, quân lính ùa đến vây làng. Cha Hoan lén ra bờ sông tìm cách trốn nhưng bị bắt. Sau đó, lính kéo đến nhà ông Trùm, rồi chia nhau lục soát khắp nhà. Khi tìm thấy áo lễ, chém lễ và ảnh tượng, lính liền bắt ông Phượng đưa về Đồng Hới cùng với cha Hoan và bảy giáo hữu khác nữa.

Tín trung đến cùng.

Dù cho quan quân áp dụng đủ cách thức để tra tấn xét khảo hết ngày này qua ngày khác, ông trùm Phượng và các bạn nhắc nhở nhau không khai điều gì làm hại đến những người còn lại. Ông nhận mình có mời cha Hoan đến nhà vì tang chứng quá rõ rệt, nhưng cương quyết không chịu bỏ đạo và không bước qua Thập Giá.

Ở dinh quan án có viên lục sự trẻ trẻ tuổi đem lòng yêu thương con gái ông Trùm, nên nói với ông: “Nếu gả con gái cho tôi, tôi hứa hết sức sẽ lo cho ông được tự do”. Ông đáp: “Không được đâu, trừ phi chính anh theo đạo. Tôi không gả con gái tôi cho người ngoại đạo, dù anh là ông ký hay quan đi nữa, tôi sợ nó không giữ được đức tin. Nếu vì lý do đó mà phải chết, tôi sẵn sàng”.

Ngày 25.05, bản án của triều đình đã về đến Đồng Hới. Ông phượng vui vẻ đi chào giã biệt các bạn tù, để sáng sớm hôm sau sẽ theo chân các lý hình ra pháp trường cùng với cha Hoan. Một người cầm bản án đi phía trước: “người này tên Nguyễn Văn Đắc, tức Phượng là tín đồ Gia Tô. Kẻ đã đang tâm bao che cho đạo trưởng Hoan. Vi phạm luật nhà nước là một trọng tội. Phải đem xử trảm tức khắc”.

Đến cửa thành, đoàn người dừng lại một lát. Thân nhân bạn hữu của hai chứng nhân đức tin đã được quan cho phép mang đến ít bánh trái để hai vị lót dạ, nhưng quân lính muốn kết thúc việc xử án cho sớm nên đánh đuổi họ. Đoàn người lại tiếp tục lên đường. Đến pháp trường, theo gương cha Hoan, ông Phượng cũng xin khỏi trói, rồi bình tĩnh qùy trên chiếc chiếu của mình, chắp tay lại cầu nguyện. Hai người con trai của chị Thủ, con gái của ông, tiến đến sát bên, vừa khóc vừa chào vĩnh biệt, nhưng ông can đảm an ủi họ. Sau đó lí hình đuổi tất cả họ ra xa. Ngay khi tiếng chiêng đầu nổi lên, đầu vị tử đạo đã rơi xuống, và linh hồn vị anh hùng đức tin về hưởng nhan Thiên Chúa muôn đời.

Đức Thánh Cha Piô X suy tôn ông Trùm Matthêu Nguyễn Văn Phượng lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Lm. Đào Trung Hiệu, OP