Thứ Sáu, 13 tháng 2, 2015

BẢN TIN HÀNG TUẦN 285

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN B
           Ngày 15-02-2015

LỜI CHÚA: Mc 1,40-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh". Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
Suy Niệm:
Phong hủi đối với người Do Thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế. Bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là ô nhơ. Vì thế người phong hủi thường ở những nơi cách biệt. Nếu đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết người phong hủi dám đến, và xin Ðức Giêsu chữa lành. Ðiều đó chứng tỏ bệnh nhân có một niềm xác tín vào Ðức Giêsu. Ðức Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất yêu thương. Ðến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không chê người phong hủi nhơ bẩn. Chúa không gớm ghét thân phận tội lỗi của loài người chúng con. Chúa càng yêu thương bệnh nhân bao nhiêu, Chúa càng phẫn nộ với bệnh tật bấy nhiêu. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương những người yếu đuối, bệnh tật. Xin cho khoa học tiến bộ để giúp con người mạnh khỏe an vui. Thiên Chúa chỉ được vinh danh khi con người được hạnh phúc. Amen.
PHỤNG VỤ
- Thứ tư, 18/02: Lễ Tro (dời giữ chay và kiêng thịt vào ngày 27/2/2015 nhằm ngày mùng 9 Tết)

CHƯƠNG TRÌNH TẾT ẤT MÙI
1.Tại nhà thờ Chính Tòa:
* Thứ tư lễ Tro: 30 Tết (18-02-2015):
   - 5g30 sáng và 5g30 chiều: lễ Tro.
   - 9g00 tối: lễ Tất niên, sau lễ:  Hái lộc Lời Chúa
* Mồng Một Tết ( thứ năm ngày 19-02-2015):
- 5g30 sáng: thánh lễ cầu bình an cho năm mới do ĐGM  giáo phận chủ tế.
- 5g30 chiều: thánh lễ
* Mồng Hai Tết (thứ sáu ngày 20-02-2015):
 - 5g00 sáng :  thánh lễ kính nhớ tổ tiên, ông bà và cha mẹ.
 - 5g00 chiều: thánh lễ chúc thọ cho các cụ từ 75 tuổi trở lên.
* Mồng Ba Tết (thứ bảy ngày 21-02-2015):
  - 5g00 sáng: thánh lễ thánh hóa công ăn việc làm.
  - 5g00 chiều: thánh lễ Chúa nhật I mùa Chay.
2. Tại nhà thờ Tiến Thành:
* Thứ tư lễ Tro: 30 Tết (18-02-2015): - 4g00 chiều: lễ Tro
* Mồng Một Tết (thứ năm ngày 19-02-2015) và Mồng Hai Tết (thứ sáu ngày 20-02-2015): 6g00 sáng, thánh lễ
* Mồng Ba Tết (thứ bảy ngày 21-02-2015):
   4g00 chiều: thánh lễ Chúa nhật I Mùa Chay
TIN TỨC  
CHÚC TẾT ẤT MÙI
Trong những ngày cuối năm Giáp Ngọ, cha chánh xứ, 2 cha phụ tá, HĐMVGX đã đi chúc Tết: ĐGM giáo phận; Đức cha Nicola, 9 cha già ở nhà nghỉ dưỡng của giáo phận; Công an, Ban Tôn Giáo tỉnh Bình Thuận; UBND, Công an TP Phan Thiết và Phường Lạc Đạo; cha Phaolô Nguyên Bá Huân, quản xứ Thánh Mẫu; bà cố cha chánh xứ Chính Tòa, ở Sài Gòn; ông bà cố hai cha phụ tá giáo  xứ Chính Tòa, ở giáo xứ Tánh Linh và Vinh Lưu.















































HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ CHÚC TẾT CHA XỨ VÀ HAI CHA PHỤ TÁ
Thể hiện tình con thảo trong giáo xứ, hội đồng mục vụ giáo xứ đã thay mặt cho toàn thể giáo xứ chúc tết cha chánh xứ và hai cha phụ tá. Ông phó nội, đại diện cho hội đồng mục vụ chúc tết ba cha; đồng thời cũng xin lỗi quý cha trong năm qua, đã làm cho quý cha buồn vì chưa làm tròn bổn phận mà cha xứ và cộng đoàn trao phó.
Cuối cùng, cha con trong gia đình giáo xứ ngồi với nhau để nhìn lại những gì đã làm được và chưa làm được trong năm qua và từ đó rút ra bài học, để năm mới Ất Mùi này khắc phục những điều chưa làm được và phát huy những điều tốt đẹp đã làm được.
Với tinh thần xây dựng gia đình giáo xứ ngày càng phát triển trong năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn Giáo Xứ, ba cha và HĐMVGX nêu ra những phương hướng để giúp cho giáo xứ ngày càng sống tinh thần hiệp thông huynh đệ, đoàn kết và yêu thương, thấm nhuần Tin mừng của Chúa kitô.


PHÁT QUÀ TẾT CHO NGƯỜI NGHÈO
Thể hiện sự quan tâm đến những người kém may mắn trong xã hội, nhờ lòng hảo tâm của 2 vị ân nhân, giáo xứ đã phân phối 1,5 tấn gạo thành 120 phần quà cho người nghèo trong các phường Lạc Đạo, Đức Nghĩa, không phân biệt tôn giáo.
THÔNG BÁO
1/ Để chuẩn bị tâm hồn đón năm mới và mùa Chay, sẽ có giải tội thứ hai và thứ ba tức  28 và 29 Tết
2/ Chương trinh tết có in trong bản tin hàng tuần, xin mọi người nhận bản tin về nhà theo dõi.
3/ Ngày 15 tháng 2 năm 2015, lúc 2 giờ 30 chiều, xin mời các bạn sinh viên – học sinh tập trung tại hội trường giáo xứ để họp mặt cuối năm ất mùi 2015.
4/ Giáo xứ chân thành cám ơn quý vị ân nhân:
- Ủng hộ giáo xứ: chị Võ Thị Hồng Nga, gh Giuse Thị: 100USD, chị Nguyễn Thị Tố Lan, giáo họ Anrê Kim Thông: 1.000.000$, anh Nguyễn Minh Hùng, gh Mt Phượng: 500.000$

- Ủng hộ người nghèo: chị Nguyễn Thị Tố Lan, giáo họ Anrê Kim Thông: 1.000.000$, anh Nguyễn Minh Hùng, gh Mt Phượng: 500.000$

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

ƠN CỨU ĐỘ NGOÀI GIÁO HỘI?

ƠN CỨU ĐỘ NGOÀI GIÁO HỘI?

Văn hào André Malraux, từ những năm 60 của thế kỷ XX, đã từng nói: “Thế kỷ XXI sẽ là tâm linh hoặc sẽ chẳng là gì cả.”[1] Lời tiên báo ấy quả là đã ứng nghiệm. Với khoa học kỹ thuật vượt trội, chưa bao giờ con người tạo ra được nhiều của cải vật chất như thời đại này; tuy nhiên, cũng chưa bao giờ nhu cầu tâm linh nói chung và tôn giáo nói riêng trở thành khẩn thiết cho con người và cuộc sống như hôm nay. Phải chăng, nhu cầu vật chất chưa phải là bến đỗ cuối cùng của con người, vì thế, họ tìm đến một sự giải thoát nơi tôn giáo. Vấn đề đặt ra là có phải tôn giáo nào cũng mang đến sự giải thoát đích thực cho họ không? hay nói như thánh Cyprien “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ” (Extra Ecclesiam nulla salus).

Những dòng sau đây sẽ đi sâu tìm hiểu châm ngôn “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ” qua lịch sử Giáo hội và dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II với các phần sau:
 (1) Nguồn gốc và hoàn cảnh áp dụng của châm ngôn, (2) Sự tồn tại và ảnh hưởng của châm ngôn ấy trong lịch sử Giáo hội, (3) Quan điểm ơn cứu độ không biên giới, (4) Kết luận.

 


1. Nguồn gốc và hoàn cảnh áp dụng của châm ngôn

Năm 250, hoàng đế Dèce (249-251) tung ra một chiến dịch nhằm thiết lập sự thống nhất dân tộc và tôn giáo, buộc mọi công dân phải phụng thờ thần minh để ủng hộ ông. Các Kitô hữu phải lựa chọn hoặc là thờ ngẫu tượng hoặc là chịu tù đày, bắt bớ, thậm chí chịu chết. Hậu quả là nhiều người tử vì đạo, một số đông bỏ đạo hoặc bội giáo. Tuy nhiên, sau cuộc bách hại kéo dài không lâu ấy, những người bỏ đạo và bội giáo muốn trở lại Giáo hội. Trong bối cảnh đó, giữa Rôma, đại điện là Đức giáo hoàng Corneille và Catharge, đại diện là Cyprien không tìm được sự đồng thuận trong cách nhận những kẻ ‘sa ngã’ (lapsi) trở lại Giáo hội. Rôma chủ trương mềm dẻo, còn Catharge chủ trương cứng rắn; từ đó dẫn tới việc ra đời ly giáo Novatien, theo khuynh hướng mềm dẻo.[2]

Bất đồng giữa Cyprien và Giáo hoàng Corneille về sự việc trên chưa nguôi thì sự hòa hợp giữa Rôma và Catharge lại bị tổn thương dưới thời Giáo hoàng Stephane (254-257) về một số vấn đề của Giáo hội, đặc biệt là vấn đề ‘tính thành sự’ của Bí tích Rửa tội ban trong các cộng đồng lạc giáo và ly giáo. Khi tiếp nhận người ly giáo trở lại Giáo hội, Rôma cho rằng chỉ cần đặt tay trên người trở lại, vì Phép rửa đã thành sự; ngược lại ở Phi Châu, tiểu Á và Syria thì rửa tội lại tất cả vì cho rằng mọi phép rửa ban ngoài Giáo hội Công giáo đều bị coi là bất thành sự. Căng thẳng xảy ra trong nhiều năm và Cyprien đã tuyên bố: “Ngoài Giáo hội không có các bí tích thành sự, cũng không có ân sủng hay ơn cứu độ.”[3] Đây chính là tiền thân của công thức: “Extra Ecclesiam nulla salus.”

Từ hoàn cảnh lịch sử trên, chúng ta thấy rằng đối tượng Cyprien nhắm tới ở đây chính là những người lạc giáo và ly giáo – những kẻ cố tình chối bỏ đức tin và cắt đứt mối hiệp thông với Giáo hội hữu hình. Trong tác phẩm của mình, ngài gọi những người theo lạc giáo, ly giáo là những kẻ ngoại tình. Một cách thẳng thắn và dứt khoát hơn, ngài cho rằng: Ai quay lưng lại với Giáo hội của Chúa Kitô sẽ không được đón nhận phần thưởng của Người vì “Không có Giáo hội làm mẹ thì không thể có Thiên Chúa làm Cha”, “nếu có ai sống ngoài tàu Noe mà thoát được chết, thì chỉ lúc đó mới có kẻ sống ngoài Giáo hội mà được thoát chết.”[4]

Tuy nhiên, ‘nguyên tắc’ của Cyprien thường bị tách rời khỏi bối cảnh lịch sử và được giải thích, áp dụng rộng rãi cho các đối tượng khác, gây ảnh hưởng sâu đậm trong truyền thống Kitô giáo và gần như trở thành ‘tín điều’.

2. Sự tồn tại và ảnh hưởng của châm ngôn ấy trong lịch sử Giáo hội

Tư tưởng của Cyprien không chỉ gây ảnh hưởng trong Giáo hội thời đại ngài, mà nó đã trở thành công thức và như ‘bức tường thành kiến’ tồn tại trong Giáo hội cho đến trước Công đồng Vatican II.

Truyền thống một số giáo phụ và thần học gia đã áp dụng công thức “Extra Ecclesiam nulla salus” cho cả người Do thái và dân ngoại.[5] Với giả thiết Tin mừng đã được loan báo khắp nơi và ai không muốn trở thành Kitô hữu thì đương nhiên phải chịu trách nhiệm vì sự chọn lựa của mình. Sau đây chúng ta sẽ điểm qua tư tưởng trên của một số tác giả tiêu biểu.

-       Thánh Ambosio, sau khi nêu lên vai trò tối cần của việc tin vào Đức Kitô để được cứu độ, đã khẳng định yếu tố trung gian không thể thiếu của Giáo hội, ngài nói: “lòng thương xót của Chúa đã chuyển thông cho tất cả các nước ngang qua Giáo hội.”[6] Như thế, thánh nhân cho rằng chỉ có thể nhận được lòng thương xót Chúa khi ở trong Giáo hội.

-       Thánh Augustinô, khi nói về một giám mục ly giáo, đã cho rằng: “Ngoài Giáo hội, ông ta có thể có tất cả, ngoại trừ ơn cứu độ.”[7] Augustinô còn đi xa hơn khi ngài tuyên bố người Do thái và dân ngoại sau biến cố Đức Kitô thì chẳng có ai được cứu độ, nếu họ không tin vào Đức Giêsu và chịu Phép rửa. Hơn nữa ngài còn giải thích rằng những kẻ chưa được đón nhận Tin mừng tức là bị Thiên Chúa loại trừ và họ đáng bị phạt vì nguyên tội.[8] Một mặt, thánh nhân khẳng định yếu tố cần thiết để hưởng ơn cứu độ là đức tin và Giáo hội, mặt khác, ngài loại trừ và đổ lỗi cho họ khi chưa đủ lý chứng để kết tội. Vì thế, xu thế thần học này được xem là ‘thần học loại trừ.’

-       Tiếp nối tư tưởng Augustinô, Fulgence de Ruspe, một đồ đệ của ông, đã bảo vệ quan điểm trên của thầy mình. Trong tác phẩm “Về chân lý của việc tiền định”, ông quả quyết: “Chẳng nghi ngờ chút nào, đối với những người mà Ngài [Thiên Chúa] đã từ chối sự hiểu biết này, Ngài cũng từ chối ơn cứu độ.”[9] Ngoài ra, Fulgence còn cho rằng không có ơn cứu độ ngoài Giáo hội, cho dù người lạc giáo, ly giáo có bố thí rộng rãi, thậm chí tử vì đạo, vì họ không hiệp thông với Giáo hội Công giáo.[10]

-       Truyền thống ‘thần học loại trừ’ này tiếp tục ảnh hưởng sâu trong lòng Giáo hội. Việc hiệp thông với Giáo hội hữu hình được xem như là điều kiện thiết yếu để được hưởng ơn cứu độ. Chúng ta sẽ gặp thấy tư tưởng này trong các văn kiện chính thức của Giáo hội, sau Cyprien nhiều thế kỷ. Đức giáo hoàng Boniface VIII trong thông điệp Unam Sanctum (18/11/1302) đã viết: “…chúng tôi chắc chắn đặt niềm tin vào Giáo hội (duy nhất) đó và chân thành tuyên xưng rằng ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ và ơn tha thứ tội lỗi.”[11] Công đồng Firence (1442) cũng lặp lại quan điểm ‘ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ’ và giải thích công thức của Cyprience cách bảo thủ, khép kín và gay gắt như sau: “Giáo hội Công giáo Rôma xác tín, tuyên xưng và rao giảng rằng chẳng một ai ở bên ngoài Giáo hội công giáo – không phải chỉ là những người ngoại giáo mà cả những người Do thái hay lạc giáo và ly giáo nữa – được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu, mà trái lại sẽ đi vào lửa đời đời được dành sẵn cho ác quỷ và các sứ thần của nó, nếu như ít nhất trong giây phút cuối đời không gia nhập vào Giáo hội.”[12]

Tóm lại, từ một tuyên bố của Cyprien trong một hoàn cảnh cụ thể đã trở thành một châm ngôn thống trị trong quan điểm về ơn cứu độ qua Giáo hội trong gần 20 thế kỷ. Châm ngôn ấy đã trở thành điểm tựa cho ‘thần học loại trừ’ và được giải thích cách sai lạc, khắt khe khi mang nó ra khỏi bối cảnh nguyên thủy và được đặt vào những hoàn cảnh khác biệt, nhiều khi hoàn toàn trái ngược.

3. Ơn cứu độ không biên giới

Phải thừa nhận rằng châm ngôn của thánh Cyprien, qua sự nhào nắn của các giáo phụ và giáo quyền, đã ảnh hưởng nặng nề và ngự trị dai dẳng nơi quan điểm của Giáo hội từ thế kỷ IV đến giữa thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XV, sau khi Columbus khám phá ra châu Mỹ, Giáo hội đã biết rằng có một lục địa rộng lớn bên kia đại dương chưa được biết đến Đức Kitô và Tin mừng, vì thế người ta bắt đầu mềm dẻo hơn khi giải thích châm ngôn ấy. Tuy nhiên, não trạng loại trừ ấy cũng âm ỉ luân chuyển trong lòng Giáo hội cho đến tận Công đồng Vatican II. Dưới ánh sáng của các văn kiện của Công đồng, lập trường của Giáo hội đã hoàn toàn thay đổi.

Trước khi đi tìm hiểu văn kiện công đồng, chúng ta cùng nhìn lại nguồn Kinh Thánh liên quan đến ơn cứu độ. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1Tm 2,3). Ngay từ thời Cựu Ước, khi sai Giona đến kêu gọi dân Ninive ăn năn sám hối, ông chỉ được sai đến để nói cho họ biết hậu quả của tội lỗi, chứ không bảo họ bỏ tôn giáo mình để theo tôn giáo của Israel. Sự hoán cải của họ đã nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa (x.Gn 3,1-10). Đối với dân Israel, tuy là dân ưu tuyển để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ, tuy nhiên, Ngài không khẳng định ơn cứu độ chỉ ban cho họ mà thôi, nhưng qua họ để mang ơn cứu độ đến cho muôn dân.[13]

Đến thời Tân Ước, qua biến cố Đức Kitô, ơn cứu độ đã được thực hiện cách thành toàn. Ơn cứu độ Ngài thực hiện mang tính phổ quát, áp dụng cho mọi người, mọi nơi và mọi thời. Lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi lên trời đã chứng thực điều đó (x.Mc 16,15-16). Vì thế, Đức Kitô trở thành Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Người muôn vật được tạo thành, cũng nhờ người muôn loài được ơn cứu độ(x. Cv 4,12). Chính Người cũng ủy thác cho Giáo hội phân phát các mầu nhiệm cứu độ cho muôn dân. Như thế, Đức Kitô và Giáo hội là hai yếu tố cần thiết để được cứu độ?

Trong thư của thánh bộ Giáo lý đức tin gửi Giám mục Boston có phân biệt ‘cần thiết phương tiện’ và ‘cần thiết nội tại’. Cần thiết nội tại đó là đức tin và đức ái phát xuất và đặt nền tảng nơi Đức Kitô, nói cách khác, Đức Kitô cần thiết tuyệt đối cho ơn cứu độ.[14] Còn việc gia nhập Giáo hội chỉ là cần thiết phương tiện, không có hiệu lực trong những trường hợp bất khả kháng.[15] Đây cũng chính là nội dung tư tưởng được đề cập trong Lumen Gentium 16.

Dưới ánh sáng Công đồng Vatican II, chúng ta có thể giải thích công thức của thánh Cyprien như sau: Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chính Người đã tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước thành thân thể Người, khi ban Thánh Thần trên họ. Cũng chính Người là đầu trong thân thể huyền nhiệm ấy.[16] Mặt khác, Đức Kitô chính là Đấng cứu độ duy nhất, ngoài Người ra không ai có thể đem lại ơn cứu độ. Như thế, ngoài Đức Kitô, không có ơn cứu độ đồng nghĩa với ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ. Chúng ta cần hiểu rằng Giáo hội – thân thể Chúa Kitô bao gồm những người kết hiệp với mầu nhiệm Vượt qua của Người. Giáo hội còn là một thực thể mầu nhiệm, là sự hiệp thông thiêng liêng gồm tất cả mọi người công chính từ khởi nguyên vũ trụ đến ngày tận thế.[17] Hơn nữa, Đức Kitô được nói tới ở đây chính là Đức Kitô siêu việt. Ngài chính là Ngôi Lời Thiên Chúa từ nguyên thủy (Ga 1,1), Đấng không chỉ là tác giả của công trình tạo dựng mà còn là nguồn mạch ơn cứu độ.[18] Ơn cứu độ đó dành cho tất cả mọi người, mọi nơi và mọi thời, bất luận họ sống trong hay ngoài Giáo hội hữu hình, trước hay sau Đức Kitô lịch sử.

Trên đây chúng ta mới đề cập đến những người kết hợp với Mầu Nhiệm vượt qua của Đức Giêsu, còn những người chưa biết đến Ngài và những kẻ cố tình chống đối thì sao?

Dựa vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, Công đồng Vatican II với hiến chế Lumen Gentium khẳng định: “những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi. Cả những kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi.”[19] Giáo hội, dưới ánh sáng của Công đồng, không hề loại trừ ai, nhưng trao phó tất cả vào lòng nhân từ Chúa. Giáo hội tin rằng những ai vô tình không biết Chúa, nhưng theo tiếng lương tâm mà ăn ở ngay chính trước mặt Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ không từ chối ban ơn cứu độ cho họ.

Hơn nữa, Giáo hội cũng nhìn nhận những ‘Mầm Ngôi Lời’, những điều chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo khác, những điều đó có thể đem lại ánh sáng và chân lý cho con người.[20] Giáo hội tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ có cách cứu độ họ.[21] Với tư tưởng này, Giáo hội thực sự đã mở ra với thế giới và tạo một viễn cảnh đầy hy vọng cho nổ lực đối thoại liên tôn của mình.

Ngược lại, đối với những người thuộc về Giáo hội hữu hình, Giáo hội có một lập trường khá cứng rắn với những ai dù biết, vẫn cố tình không tin nhận Đức Kitô, chối từ ân sủng. Hiến chế chỉ rõ:“những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi.”[22] Ở đây thực sự là một lời giải thích thỏa đáng cho tuyên ngôn của thánh Cyprien. Quả thật, lỗi cố tình này nhiều khi được cho là tội phạm đến Chúa Thánh Thần – cố tình chối từ ơn thánh và những phương tiện cần thiết để được cứu độ – ắt hẳn sẽ không được hưởng ơn cứu độ. Văn kiện trên còn nhấn mạnh rằng để lãnh ơn cứu độ con người phải có thái độ tích cực chứ không phải thụ động. Những người đang sống trong Giáo hội, nhưng “nếu họ không đáp lại hồng ân ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ không được cứu rỗi mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn.”[23]

Tóm lại, với ơn soi dẫn của Thánh Thần và dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, Giáo hội đã có một lối nhìn đúng đắn và cởi mở hơn về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, Giáo hội đã chính thức nhìn nhận mình chỉ là dụng cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Trên tất cả, quyền năng cứu độ là của Thiên Chúa.

Kết luận

Thiên Chúa dựng nên con người là để cho họ chia sẻ niềm hạnh phúc vô biên của Người. Người muốn cứu độ không những con người mà cả vạn vật nữa. Trong một thế giới đa nguyên tôn giáo, con người rất khó xác định được hướng đi của của đời mình để có thể đạt được ơn cứu độ. Tuy nhiên, số phận chung cuộc của con người đều nằm trong chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa, và Người có cách để đưa vạn vật tới viên mãn. Phần chúng ta, chúng ta không có quyền kết án, loại trừ ai và cho ai vào hỏa ngục hay lên thiên đàng.

Chúng ta vẫn luôn xác tín rằng ơn cứu độ chỉ có nơi Đức Kitô và Giáo hội là phương tiện chuyển giao hồng ân ấy. Vì thế, Giáo hội không ngừng nổ lực loan truyền và mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Trong hồng ân Năm Đức Tin mà Giáo hội khai mở cho chúng ta, chúng ta tái khám phá kho tàng đức tin của Giáo hội, đồng thời canh tân đời sống đức tin của mình và thông truyền đức tin ấy, để mọi người, mọi dân tộc sớm nhận biết Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Xin mượn lời của văn kiện Thượng hội đồng Giám mục thế giới thứ 13 để thắp lên niềm hy vọng cho nhân loại trong khi Giáo hội nổ lực thông truyền đức tin: “Hồng ân của Thiên Chúa mà đức tin làm cho hiện diện, không phải chỉ là một lời hứa hẹn các điều kiện tốt đẹp hơn ở trần thế này, nhưng còn là lời loan báo rằng ý nghĩa tối hậu của cuộc sống chúng ta đi xa hơn trần thế này, trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa, Đấng đang chờ đợi chúng ta vào cuối thời gian.”[24]

Phêrô Nguyễn Văn Ninh
 Đại chủng viện Vinh Thanh

[1] P. Nguyễn Thái Hợp, Để Họ lớn lên, (Sài Gòn, Đức tin và Văn hóa, 2007), 141.
 [2] Simon Hòa Đalạt, Lịch sử các Giáo Phụ tập 1, (Đại chủng viện Vinh-Thanh, 2012), 129.
 [3] Simon Hòa Đalạt, Lịch sử các Giáo Phụ tập 1, 135-136.
 [4] Peter Neuner, Giáo Hội Học qua các tác giả, (Đại chủng viện Thánh Giuse), 100.
 [5] Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học các tôn giáo, (Houston, Dấn thân, 2004), 78.
 [6] Ambrosio, In Ps.118, Sermo 8,57.
 [7] Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học các tôn giáo, 78.
 [8] Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học các tôn giáo, 79.
 [9] Fulgence de Ruspe, De veritate praedestinations 3,16.
 [10] Peter Neuner, Giáo Hội Học qua các tác giả, 125.
 [11] Peter Neuner, Giáo Hội Học qua các tác giả, 141.
 [12] Denzinger, Symboles et definitions de la foi cathelique, (Paris, Cerf, 1996), 1351.
 [13] Gerard O’Collins, S,J., Thần học căn bản, n.d Đaminh Nguyễn Đức Thông, (Hà Nội, nxb Tôn Giáo, 2012), 238.
 [14] Gerard O’Collins, S,J., Thần học căn bản, 238.
 [15] P. Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học các tôn giáo, 85.
 [16] Lumen Gentium 7, trong Công đồng Vatican II (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo hoàng học viên Piô X, 1972), 151-152.
 [17] Lumen Gentium 2, trong Công đồng Vatican II, 145.
 [18] Gerard O’Collins, S,J., Thần học căn bản, 245.
 [19] Lumen Gentium 16, trong Công đồng Vatican II, 172.
 [20] Nostra Aetate 2, trong Công đồng Vatican II (Đà Lạt: Phân Khoa Thần Học – Giáo hoàng học viên Piô X, 1972), 470.
 [21] Phạm Quang Long, “Có thể có ơn cứu độ nơi các tôn giáo chăng?”, 2012, http://www.simonhoadalat.com, truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2012.
 [22] Lumen Gentium 14, trong Công đồng Vatican II, 169.
 [23] Lumen Gentium 14, trong Công đồng Vatican II, 170.
 [24] Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới thứ 13, 7, n.d Trần Đức Anh, http://tonggiaophanhue.net, truy cập ngày 14/12/2012.


 Nguồn: lamhong.org

THƯỢNG ĐẾ CÓ HAY KHÔNG?

THƯỢNG ĐẾ CÓ HAY KHÔNG?
 Câu trả lời của Gautama Buddha.

Sài gòn ngày Chúa Nhật 25/5/2014.
 Quý mến tặng Anh Phạm Việt Hưng và Anh Bùi Hoằng Vị.

1. Có vài điều, khi còn tại thế, Gautama Buddha đã không trả lời. Ngài không nói nó đúng, ngài không nói nó sai. Ngài không nói nó bé, ngài không nói nó lớn. Ngài không nói nó xấu, ngài không nói nó đẹp. Ngài không nói nó tồn tại, ngài không nói nó không tồn tại. Không trả lời, ngài im lặng.

Có mười bốn câu hỏi như vậy, ngài không trả lời. Mười bốn câu hỏi, thuộc bốn chủ đề. Ngài không trả lời về sự vô cùng của Không gian. Ngài không trả lời về các thuộc tính của Thời gian, những khái niệm về trước của quá khứ, những khái niệm về sau của tương lai. Ngài không trả lời về Linh hồn, cái nối tiếp giữa các kiếp đời. Ngài không trả lời về Thượng đế, Đấng sáng tạo đã tạo ra mọi thứ.

Đó là bốn chủ đề, ngài không trả lời; ngài im lặng.

Có phải chăng, trong thế giới này, với bốn chủ đề này, câu trả lời, dường như là không có.  Từ khi Gautama Buddha im lặng, bốn chủ đề này, ngàn năm nay luôn là nỗi trăn trở của người tìm kiếm, của các học giả, của các triết gia, của các nhà khoa học… Có phải chăng, khi đã có câu trả lời, thì người tìm kiếm không còn cần đến nó nữa? Người tìm kiếm đã BIẾT, khi đã thấy cái họ cần biết, thì mọi câu trả lời là vô nghĩa? Câu trả lời được kinh nghiệm trong im lặng; ngôn từ không thể diễn đạt, có phải chăng là vậy?

Hay là còn, còn một lý do nào khác nữa, mà Gatama Buddha đã im lặng?

2. Gatama Buddha xuất hiện cách đây 2.500 năm. Thời điểm ngài xuất hiện đó là thời điểm đặc biệt. Thời điểm đó, trên thế giới, cũng có rất nhiều các bậc thầy trí huệ khác, xuất hiện. Dường như không phải ngẫu nhiên, các bậc thầy rủ nhau cùng xuất hiện. Vào thời đó, ở India có Gautama Buddha, có Mahavira; sau Gautama là Buddhism với tín đồ lên tới hàng trăm triệu, hàng tỷ người; sau Mahavira là Jainism đã từng là một tôn giáo lớn ở India với giáo lý khổ hạnh và tư tưởng bất hại. China có Lao Tzu; sau Lao Tzu là Taoism, ngày nay có mặt tại China, Korea, Japan, Vietnam, Singapore,… Nhiều nơi khác nữa, rất nhiều các bậc trí huệ xuất hiện. Ở Iran có Zarathustra; ở Anatolia có Heracleitos; ở Egypt có Toth; ở Greece có Thales, có Pythagoras, có Socrates,… Thales, Pythagoras, Socrates những con người này, họ không chỉ là triết gia, nhà toán học, nhà thơ,… hơn hết họ là những nhà huyền học. Họ dạy cả công truyền và họ dạy cả mật truyền. Họ dạy về những con số, những đường thẳng song song, về tam giác… Và họ cũng dạy cả về những lời khải huyền, các tầng  giáo lý thâm sâu. Rất nhiều bậc trí huệ, xuất hiện vào thời điểm đó. Sau đó muộn mằn hơn, bốn năm trăm năm sau, là sự xuất hiện của Jesus Christ.

Dù là tình yêu, từ bi hay là trách nhiệm, các bậc thầy trí tuệ đã đồng loạt xuất hiện. Họ đã xuất hiện, xuất hiện theo kiến thức của Zodiac, Cung Hoàng đạo. Họ đã xuất hiện tại thời điểm chuyển thời của Trái đất, thời điểm chuyển thời của Hệ Mặt trời. Sự xuất hiện của họ dường như để chuẩn bị cho con người đón thời Pisces – Song ngư; thời mà con người phải nhọc nhằn hơn, nếu muốn đi về phía Ánh sáng. Sự xuất hiện đồng loạt của các Đạo sư, dường như để báo hiệu rằng, những giáo lý nguyên thuỷ, thuần khiết và trinh nguyên không còn hợp với con người lịch sử. Con người mà tần số dao động giáng xuống. Con người mà các luân xa đã bị đóng lại, đang khoác lên mình những tấm vỏ bọc giả tạo. Con người đã chìm đắm trong vật chất. Những con người đó cần thiết phải có những con đường thích hợp. Các bậc thầy trí huệ đã xuất hiện; lập ra các con đường cho các quốc gia, cho các dân tộc; phù hợp với địa lý, phù hợp vơi lịch sử, phù hợp với văn hoá của họ; hơn cả là phù hợp với con người trong một Thời mới.

Gautama Buddha đã im lặng trước câu hỏi Thượng đế, Linh hồn. Ngài không nói có, ngài không nói không, ngài đã im lặng. Ngài nói về: Vô ngã, Tính không, Luân hồi và Niết bàn. Phải chăng với con người đã chìm trong thế giới vật chất, với con người tần số dao động giáng xuống vùng nặng nề, thì Linh hồn hay Thượng đế có ích gì. Chỉ là thứ để con người níu bám, xin xỏ; xin được rồi, muốn xin nhiều hơn. Ngay cả khi tưởng là không xin nữa, thì lại đòi được thưởng; thưởng cho sự không xin xỏ của mình. Không tham vật chất nữa, người ta có muôn kiểu tham khác; tâm lý tham, tâm linh tham. Người ta từ bỏ tiền của, vật chất, đất đai, nhà cửa,… nhưng người ta hướng tới danh tiếng và sự kính trọng. Người ta từ bỏ tiền của, vật chất người ta hướng tới sự khác biệt, quyền năng, sự sùng bái… Người ta từ bỏ gia đình vợ con, người ta níu bám vào đạo tràng, vào tu viện, vào nhà thờ, vào giáo lý. Đủ mọi kiểu níu bám và xin xỏ. Gautama Buddha đã im lặng. Ngài im lặng, im lặng về Linh hồn, im lặng về Thượng đế. Ngài nói tất cả đều vô ngã, tất cả đều Tính không; anh cũng là không, tôi cũng là không, tất cả đều là không; cuộc đời này là khổ, luân hồi là các kiếp nhân gian; cần phải giải thoát để về Nirvana – Niết bàn.

Người Phương Đông hướng nội; Gautama Buddha muốn những con người này không thành kẻ ăn xin và nô lệ.

3. Có một vị Tiến sĩ vũ trụ học, tên là Hugh Ross, ông ấy đã dùng phương pháp Quy hoạch động - Dynamic programming một phương pháp trong Lý thuyết ngẫu nhiên – Probability theory, để tính toán cơ hội đã hình thành nên Trái đất.

Bài toán về sự hình thành của Trái đất, ông ấy đặt ra, khảo sát và đưa vào tất cả những yếu tố mà con người có thể hiểu biết, rằng nó sẽ tác động vào quá trình tạo dựng Trái đất. Ông ấy tìm ra 320 yếu tố. Nào là kích thước, vị trí, cấu trúc của các Giải Ngân hà; nào là kích thước, vị trí, cấu trúc của Hệ Mặt trời; nào là thời gian, chu kỳ của các quỹ đạo các hành tinh; nào là cấu tạo của Trái đất; nào là đặc điểm của Bầu Khí quyển,… Rất nhiều, hơn 320 yếu tố là 320 biến số của một hàm số mô tả cơ hội để tạo dựng nên Trái đất.

Ông ấy giải, chương trình MTDT giải, kết quả là… một cơ hội nhỏ hơn …1 phần của 10 luỹ thừa 282; nghĩa là một số nhỏ hơn 1 lớn hơn 0, mà số 1 sẽ đứng sau dấu phẩy thập phân và 283 con số 0.

Một xác suất vô cùng thấp, coi như không có. Coi như không thể có Trái đất nếu chỉ trông chờ vào ngẫu nhiên cùng sự tiến hoá. Trái đất, Hệ Mặt trời, Giải Ngân hà, Vũ trụ này… không thể ngẫu nhiên tiến hoá sau vụ nổ Big Bang. Phải có một năng lượng siêu phàm, một trí tuệ siêu việt, một thiết kế vô song mới tạo nên được Trái đất, sự chuyển động của nó và Sự sống Nhân sinh này.

Cũng vậy, thế giới vi mô, cấu trúc của tế bào. Một tế bào trong cơ thể người, nhỏ hơn 1 phần 3000 mm; 10.000 tế bào gom lại một đầu kim. Vậy mà mỗi tế bào chứa nhiều trạm phát điện; nhiều nhà máy chuyển hoá rất phức tạp; một kho dữ liệu (data bank) khổng lồ chứa được dung lượng của 900 bộ Tự điển Bách khoa (encyclopedia). Mỗi một tế bào đều chứa kho lưu trữ, hệ thống thần kinh, cảm giác, bộ tiêu hoá, bộ giải độc tố, hệ thống lọc chất thải, hệ thống tạo nhiệt, hệ thống chuyển hoá và sản sinh hoá chất, truyền tin, cơ quan tự vệ, cùng một hệ thống giao thông vô cùng phức tạp… Mỗi một tế bào chứa hơn 300 hoá chất, hơn 10,000 các Protein khác nhau; mỗi Protein có 20 loại acidamino… Mỗi một tế bào lại còn chứa những tế bào DNA trong đó. Mỗi một tế bào DNA lại là một kho chứa một triệu tỷ dữ kiện.

Trong thân thể con người có tới hơn 220 loại tế bào khác nhau; như tế bào da, máu, xương, tóc, gan, ruột… Cơ thể con người có tổng cộng là khoảng 100 ngàn tỷ (100 trillion) tế bào. Mỗi tế bào đều có nhiệm vụ và cấu trúc khác nhau để giúp cho cơ thể được sống. Mỗi tế bào là một đơn vị độc lập, có sự sống riêng. 100 ngàn tỷ tế bào này làm việc rất đồng nhịp dưới sự chỉ huy của não bộ. Chỉ cần nhiệt lượng trong cơ thể tăng hoặc giảm vài độ là toàn bộ hệ thống sẽ suy giảm, ngừng hoạt động, phân rã, con người sẽ chết. 100 ngàn tỷ tế bào này là một Nhà máy Điều Nhiệt khổng lồ. Tất cả các tế bào phải làm việc đồng bộ để duy trì nhiệt lượng đúng mức cho cơ thể. Một tế bào phải biết 999 ngàn tỷ tế bào kia.

Nếu thời của Darwin, có MTDT, và ông ấy biết được phương pháp Quy hoạch động, thì ông ấy sẽ không phát biểu nên Thuyết Tiến hoá. Ông ấy sẽ tính ra cơ hội để tạo dựng nên một sinh thể như con người hiện nay, cũng không khác là bao so với cơ hội tạo dựng nên Trái đất.

Trái đất, bầu trời, những vì sao và con người không thể có được bằng tiến hoá. Phải có một năng lượng siêu phàm, một trí tuệ siêu việt, một thiết kế vô song của Đấng Sáng tạo mới tạo dựng nên được một thực tại tuyệt vời này.

Đó là điều tôi tin cậy.

4. Nhưng thật không đơn giản, để phản bác những luận điểm rằng: không có Thượng đế. Osho nói không có Thượng đế. Nieztsche nói Thượng đế chết rồi. Đầu của hai con người này và đầu của nhiều người khác không phải bằng đá, không thể. Họ là những con người khác thường, kẻ nguy hiểm, kẻ siêu việt; họ rất thông minh; họ có những lý do riêng của họ.

Thực tại này bất toàn. Bất toàn không chỉ vì có những người tin có Thượng đế và có những người không tin có Thượng đế. Bất toàn không chỉ vậy, không chỉ vì tồn tại hai loại người. Mà bất toàn là ở bản chất của thực tại. Định lý Bất toàn của Kurt Gödel, không nên giới hạn trong vật lý, không nên giới hạn trong toán học, không nên giới hạn trong triết học; nó thực sự mở rộng cho toàn thực tại này. Thực tại bất toàn; vì bất toàn mà làm cho một người này, đứng ở tầm nhìn này, thấy có Thượng đế; một người khác, đứng ở tầm nhìn khác, thấy không có Thượng đế. Con người sẽ mãi quanh quẩn với những tranh luận về có và không, về tồn tại và không tồn tại. Ngay cả khi, tâm thức của con người có thể nâng cao lên một tầm cao mới, một thực tại mới, nhưng nếu chưa đạt tới Vô ngã; thì con người vẫn là bất toàn; vẫn trong thực tại bất toàn; vậy thì sẽ có một Định lý Bất toàn mới, sẽ có một Kurt Gödel; vậy thì vẫn còn người tin có Thượng đế, vẫn còn người không tin có Thượng đế.

Thường đế là cái toàn hảo, không thể hiểu, không thể biết trong một thực tại bất toàn.

5. Gautama Buddha đã siêu việt kiến giải về Thượng đế, về Linh hồn. Bằng Phương pháp Biện chứng, với Bốn tầng phân biệt (catuskoti), Gautama Buddha đẩy cao xung đột có và không lên một tầng cao mới:

“Thượng đế có tồn tại; hay không tồn tại; hay vừa tồn tại, vừa không tồn tại; hay vừa không tồn tại, vừa không không tồn tại?”

Buddha không làm phức tạp hoá vấn đề, ngài đơn giản hoá vấn đề đi. Ngài giải quyết xung đột có và không, tồn tại và không tồn tại bằng cách đẩy cao nó lên một bình diện mới; đẩy nó sang một Hệ quy chiếu khác.

Như Lai, Thượng đế, Đấng Sáng tạo, Thực thể Tối thượng, Niết bàn, Đạo,… là Cái Tuyệt đối, cái toàn hảo, cái không thể bất toàn. Cái Tuyệt đối không thể là một thực thể đối lập với một thực thể khác trong thực tại bất toàn. Con người không thể hiểu và cũng không thể BIỂT được Cái Tuyệt đối. Cái mà con người tưởng là Cái Tuyệt đối qua tư duy, qua phân biệt không thể là Cái Tuyệt đối thực sự. Cái Tuyệt đối thực sự chỉ có thể BIẾT khi mọi tâm trí phân biệt đều được rũ bỏ; chỉ có thể kinh nghiệm được khi vượt ra ngoài thực tại bất toàn này.

Prajñā Pāramitā, là trí huệ qua bờ bên kia. Rũ bỏ tâm trí phân biệt, rũ bỏ qua mọi nhà tù: giác quan, hệ thần kinh, não bộ, tư duy, suy nghĩ, cảm xúc, thói quen, tri thức, luân lý, đạo đức, pháp luật, thể chế… mọi vọng gác, mọi hàng rào, mọi tường ngăn, mọi lớp vỏ, mọi lớp chăn phủ… tất cả đều rũ bỏ vậy thì Cái Tuyệt đối, Thượng đế sẽ hiển lộ; khi đó là bờ bên kia, Pāramitā.

Cư sĩ Minh Đạt


Nguồn: tincaytinhyeu.wordpress.com

Phải chăng Vũ Trụ do “ngẫu nhiên” mà có?

Phải chăng Vũ Trụ do “ngẫu nhiên” mà có?

Theo thiển ý người viết, cần giải thích ý nghĩa của “ngẫu nhiên, thiên nhiên, tự nhiên, tạo hóa” trước khi mạo muội trả lời cho câu hỏi đã nêu ở tựa đề.

I- Ý nghĩa của chữ “ngẫu nhiên”

A- Từ “Việt-Nho”

“Ngẫu” () là “thình lình, tình cờ”, “nhiên” () là “như thế”. Chuyện “ngẫu nhiên” là việc “tình cờ xảy ra như vậy!”

B- Từ Anh, Pháp, Đức: par hasard; by chance; zufällig

1- Tiếng Anh: I met her by chance. (Tôi tình cờ gặp nàng.)

2- Tiếng Pháp: Si par hasard vous la voyez… (Nếu tình cờ anh gặp nàng…)

3- Tiếng Đức: Ich bin zufällig hier vorbeigekommen. (Tôi tình cờ đi qua đây.)

C- Nhận định về các câu ở phần B

Việc “gặp nàng” hay “đi qua nơi ấy” rõ ràng là KHÔNG DO chủ ý của tôi. Tuy nhiên, nếu bảo rằng hai “sự việc” ấy KHÔNG CÓ nguyên nhân thì tôi sai hoàn toàn bởi vì:

1- Nàng có LÝ DO nào đó mới đi qua nơi tôi cũng đi qua, chẳng hạn: do lầm đường, đang vui hay buồn quá đến nỗi nàng “quên” đường về.

2- Tôi cũng có LÝ DO là đến tiệm hớt tóc ở đường mà nàng “vô tình”, tức “không chủ ý” đi qua.

Cả hai, nàng và tôi, gặp nhau là DO tình cờ. Chữ TÌNH CỜ có nghĩa: không tính trước, không dè. Như vậy, xét cho cùng, ngoài hai LÝ DO đã nêu, TÌNH CỜ cũng là NGUYÊN NHÂN “đưa đẩy” nàng và tôi gặp nhau bởi vì:

a- Theo Luận Lý Học VỠ LÒNG, một trong bảy nguyên tắc căn bản của Lý Trí là: “Mọi sự đều có nguyên nhân.” đúng như câu nói của Gottfried Wilhelm Leibniz, nhà Toán Học, Triết Gia Đức: “KHÔNG có gì CHẲNG có gì mà KHÔNG có lý do.” (Rien n’a rien sans raison.)

b- Người Việt cũng viết, nói như người Anh, Pháp, Đức, chẳng hạn: “Tôi gặp nàng hoàn toàn DO tình cờ.” (I met her quite BY chance. Je l’ai vue complètement PAR hasard. Ganz DURCH Zufall habe ich sie gesehen.) Giới từ BY, PAR, DURCH đều có nghĩa: do, bởi, vì, qua.

3- Có thể thay “par hasard” bằng “par accident” và thay “by chance” bằng “by accident” vì “accident” do từ Latinh “accidens, accidentis” (participe présent) của động từ “accidere: xảy ra” có tiếp đầu ngữ “ac” (1) là do “ad” (có nghĩa: to, upon; à, sur) và ngữ căn “cidere” có nghĩa là “tomber, fall”: rơi. Người Đức cũng có chữ “Akzidenz” cùng nghĩa với Zufall mà “nguyên nghĩa: sens étymologique” là việc RƠI TRÚNG, RƠI XUỐNG…

Trong bài hát “Il était un petit navire”, có câu nói về số phận người sẽ bị ăn thịt: “Le sort tomba sur le plus jeune.” (Thủy thủ trẻ nhất BỊ trúng thăm.) Người Pháp cũng nói: “La pleine lune de ce mois tombe le samedi.” (Trăng tròn tháng này NHẰM ngày thứ bảy.) CHẲNG ai có thể bắt trăng phải tròn vào ngày mình muốn VÌ đó là “hiện tượng” theo QUY LUẬT DO ÔNG TRỜI LÀM NÊN, chứ KHÔNG DO tình cờ, chẳng hạn: hiện tượng mà chúng ta gọi là nhật thực, nguyệt thực.

4- CŨNG cho rằng “mọi sự đều có nguyên nhân” mà người Pháp định nghĩa chữ “ngẫu nhiên: hasard” như sau: “NGUYÊN NHÂN được gán cho các biến cố mà người ta xét là KHÔNG THỂ giải thích hợp lý BỞI VÌ các biến cố ấy chỉ tùy thuộc vào LUẬT xác suất.” (hasard: CAUSE attribuée aux événements considérés comme inexplicables logiquement et soumis seulement à LA LOI des probabilités.) Họ cũng viết: “Le hasard décidera.” (Sự ngẫu nhiên sẽ quyết định.) Người Đức viết “văn hoa” như người Pháp, Anh: “Der glückliche Zufall wollte es, dass… Le hasard voulut que… The chance wanted that…” Nếu dùng cách ấy cho trường hợp của chàng thủy thủ trẻ thì có thể dịch như sau: “SỐ LÀ anh ta bị trúng thăm.” (Le hasard voulut que le sort tombât sur lui.) Anh ta “không ngờ” mình gặp xui; cái xui ấy vẫn có NGUYÊN NHÂN: hết lương thực, thủy thủ đoàn sợ chết đói, ĐÀNH phải bốc thăm ĐỂ có thịt MÀ ăn. Anh ta BÈN lên boong tàu, quỳ gối, chắp tay cầu nguyện: “Ôi, lạy Thánh Nữ Đồng Trinh, ôi lạy Đấng Bảo Hộ con, xin Mẹ ngăn cản họ ăn thịt con.” (Ô Sainte Vierge, Ô ma Patronne, empêchez-les-les-les de me manger.) THẾ LÀ “vô số cá nhỏ nhảy vào tàu” là hiện tượng CÓ nguyên nhân, tức phép lạ QUA Trinh Nữ, NHỜ lời van xin CỦA anh ấy. NẾU cho rằng CHẲNG có phép lạ THÌ việc cá nhảy lên tàu cũng DO nguyên nhân nào đó.

II- Các chữ “nhiên, thiên nhiên, tự nhiên, tạo hóa”

A- “Nhiên”

Theo Cụ Đào Duy Anh, chữ “nhiên” () còn có nghĩa nầy: CỐ Ý CHO ĐƯỢC. Có người nghĩ rằng Vũ Trụ DO “tự nhiên” mà ra. Vậy, xin người ấy “nghe” cách giải thích sau đây:

B- Thiên nhiên (vẫn theo Cụ Đào Duy Anh): “Thiên nhiên” cũng là Tự nhiên. Tự nhiên tức Tạo hóa, là “sáng tạo và hóa sinh”, là “Trời: Créateur!”

C- Từ Điển của Cao Đài: “Thiên nhiên là Trời LÀM RA như thế.” (Chữ “Trời” được viết hoa.)

D- Từ Điển (Lê Khả Phiêu-Nguyễn Lân, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam): “Tạo hóa: Créateur.”

E- Từ Điển (Đào Đăng Vỹ): “Tạo hóa, ĐẤNG Tạo-hóa: Le Créateur.”

F- Tự Điển Việt-Anh (Đặng Chấn Liêu-Lê Khả Kế): “Tạo hóa: The Creator.”

G- Cuốn Vietnamesisch-Deutsch (Phan Trung Liên): “Tạo hóa: Weltschöpfer.”

III- Vũ Trụ không do ngẫu nhiên mà có

Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước) ghi lại Lời Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng dựng nên Vũ Trụ từ hư không. Tuy nhiên, vẫn có người cho rằng Vũ Trụ hiện hữu là do ngẫu nhiên! Vậy, tôi xin viết thêm:

A- Tôi chẳng phải là “sản phẩm phụ, tình cờ trong Vũ Trụ” (an accidental by-product of nature) bởi vì tôi khác với loài vật và sự vật: tôi biết lý do, ý nghĩa, mục đích của đời mình, linh hồn tôi bất tử…

B- Cho nên, tôi KHÔNG sống theo bản năng như súc vật, mà theo Thiên Ân là mang Hình Ảnh của Đấng dựng nên Vũ Trụ VÌ Vinh Quang của Ngài, CHO tôi và VÌ tôi.

C- Tôi KHÁC “con chim ở đậu cành tre, con cá ở trọ trong khe nước nguồn” VÌ tôi có lý trí, lương tri, KHÔNG “hót như chim”, MÀ “hát Thánh Ca” ĐỂ tôn vinh Thiên Chúa ĐÃ “sáng tác bao nhiêu là Kỳ Công” CHO nhân loại hưởng nhờ, ngắm nhìn, suy nghĩ VÀ nhận ra ĐẤNG TOÀN NĂNG!

D- Nếu Vũ Trụ này DO “tình cờ”, tức KHÔNG CÓ Đấng Tạo Hóa thì nên XÓA ĐI trong Tự Điển Bách Khoa các chữ “Datum, date, data” (có nghĩa: “ngày, tháng, năm” do Đấng-phi-thời-gian-phi-không-gian làm ra) vốn có gốc Latinh DATUM (được CHO, ĐƯỢC TẶNG) và những lời dạy của Thánh Hiền Việt Nam, của Thầy-Cô, của Tổ Tiên, của Ông-Bà, Cha-Mẹ tôi đều CHỈ là vô nghĩa VÌ các Vị ấy đã trở thành “TRO BỤI” trong lòng đất! Cho nên tôi phải thờ lạy “Vũ Trụ tự hữu, VÔ TRI” bởi vì ĐÂU CÓ “Tòa Án Tối Cao” của Thượng Đế mà tôi tưởng tưởng ra. Mắc mớ gì mà tôi phải sống “Đạo làm người” vì chết là hết cơ mà!?

E- Nếu Vũ Trụ này là “vô nghĩa” thì các nhà bác học vô thần là những người KHÔNG TƯỞNG (2) vì, (bằng những lập luận không có sức thuyết phục tôi và TUYỆT đại đa số người khác), họ phải UỔNG công chứng minh “Đấng-Không-Có” khiến tôi tự nghĩ: “Họ cũng nên khẳng định rằng Cổ Thành Erbil ở Iraq là DO TÌNH CỜ MÀ CÓ cách đây chừng 10.000 năm, CHỨ CHẲNG CÓ AI dựng nên nó cả!”

F- Nếu Vũ Trụ này DO “tình cờ” thì AI là “Đấng Toàn Tri, Toàn Năng, Trên Cả tuyệt đối, Đấng Vô Hạn” (L’Infini) chế ra cái Cổ Máy CỦA Trời (Thiên Cơ) và trật tự lạ lùng của NÓ? Đó là CHƯA nói đến “phép lạ” trong từng tế bào nơi thân xác tôi mà con người CHẲNG tạo ra được từ hư không!

G- Nếu Vũ Trụ này DO “tình cờ” thì TẤT CẢ các THIÊN thể đã HÚC nhau và NỔ TUNG từ đời nào VÀ CHẲNG CÓ TÔI ngồi đây mà viết bài tôn vinh Chúa Cả Càn Khôn!

H- Máy Lotto “chọn” 6 con số trong 49 con. Máy ấy có tới 13.983.816 cách để cho chui ra 6 số mà thôi. Ai trúng thì là người may mắn KHÔNG do tình cờ VÌ máy đó là sản phẩn của những nhà Toán Học. Nhưng nhà Toán Học nào cũng THUA Đấng-Toán-Học-Toàn-Năng, chính là Thiên Chúa!!!

Đức Quốc, 23.7.2014
Đaminh Phan Văn Phước

Ghi chú
 (1)- Giới từ “ad” Latinh cũng biến thành “à” trong tiếng Pháp và thành “at” trong tiếng Anh.
 (2)- Cái “không tưởng” (utopie) do tiếp đầu ngữ Hylạp ο /u/ là “không”, và do ngữ căn τοπος /topos/ là “chỗ, nơi chốn”. Người-không-tưởng (utopiste) là thành phần đi theo chủ nghĩa “không tưởng”: doctrine utopiste, dạy những điều không tưởng!!!


 Nguồn: lamhong.org

Thiên Chúa và các khoa học gia

Thiên Chúa và các khoa học gia
Các khoa học gia có tin Thiên Chúa? Có 40% các khoa học gia tin Thiên Chúa, đa số là các khoa học gia trẻ tuổi. Chứng cớ về Thiên Chúa không dễ tìm thấy trong phòng thí nghiệm, nhưng tôn giáo vẫn giữ vai trò quan trọng trong giới khoa học.
Isaac Newton

Ông là một trong các khoa học gia nổi tiếng nhất. Ông là nhà vật lý và nhà toán học đã phát hiện định luật vạn vật hấp dẫn. Ông đưa ra chứng cớ về Thiên Chúa: “Thái dương hệ đẹp nhất, các hành tinh, và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ ý định và quyền lực về sinh vật thông minh và quyền hành”.

Albert Einstein

Ông là cha đẻ của thuyết tiến hóa. Khoa học gia nổi tiếng này tin vào quyền tối cao mà lại không nhận biết Thiên Chúa. Ông giải thích về quan điểm tâm linh: “Mọi người theo đuổi khoa học đều tin rằng thần linh biểu hiện trong quy luật của vũ trụ – một thần linh vượt trội con người, và trước thần linh này, chúng ta phải khiêm nhường. Theo cách này, sự theo đuổi khoa học dẫn tới cảm thức tôn giáo của một loại đặc biệt, điều này thực sự rất khác với tín ngưỡng của người ngây thơ”.

Stephen Hawkings

Khoa học gia nổi tiếng trong thời đại chúng ta là tiến sĩ Stephen Hawkings. Ông là chuyên gia về thuyết tương đối và cơ học lượng tử. TS Hawkings là người theo thuyết bất khả tri (agnostic), không phải là vô thần (atheist), nhưng ông có nói về Thiên Chúa: “Điều tôi đã làm là để chứng tỏ rằng có thể vũ trụ bắt đầu được xác định bằng quy luật của khoa học. Trong trường hợp này, không cần yêu cầu Thiên Chúa quyết định cách khởi đầu vũ trụ. Điều này không chứng tỏ là không có Thiên Chúa”. Điều “không chứng tỏ là không có Thiên Chúa” tức là “chứng tỏ có Thiên Chúa”.

Charles Darwin

Charles Darwin là nhà sinh học nổi tiếng với thuyết tiến hóa “nóng sốt” trong thời ông. Nhưng khi tuyên bố rằng con người tiến hóa từ cây cối và động vật như loài khỉ, Darwin đã đưa ra chứng cớ về Thiên Chúa: “Với nhận thức của chúng ta, không thể hiểu rằng vũ trụ to lớn và kỳ diệu này ngẫu nhiên mà có, đối với tôi có vẻ là sự tranh luận chính về sự hiện hữu của Thiên Chúa”.

Francis Collins

Dự án gen con người được hoàn tất năm 2003. Bản đồ gen kỳ diệu đó đã thay đổi các nghiên cứu của y học và sinh học. Lịch sử trước đó chưa bao giờ có nhận thức khoa học nào mở ra những cánh cửa tới việc cải thiện chất lượng của cuộc sống. TS Francis Collins là giám đốc Viện Nghiên cứu Quốc gia về Hệ Gen Con người (National Human Genome Research Institute). Người ta hỏi:“Các khoa học gia có tin vào Thiên Chúa?”. Ông trả lời: “Khoa học không hiệu quả trong việc phê bình thế giới siêu nhiên. Đối với tôi, cả hai thế giới đều khá thực tế và khá quan trọng. Chúng nghiên cứu khác nhau. Chúng cùng hiện hữu. Chúng soi sáng lẫn nhau”.

Max Planck

Ông đoạt Giải Nobel về vật lý. Thuyết lượng tử của ông đã khiến nhân loại phải suy nghĩ lại một số niềm tin về triết học mà trước đây người ta ca tụng. Khoa học gia Kitô giáo này sống trong chế độ Đức quốc xã, ông thấy nhiều bạn bè và đồng nghiệp trong giới khoa học bị hành hạ vì niềm tin tôn giáo. Đây là lời ông nói về khoa học và Kinh Thánh: “Cả tôn giáo và khoa học đều cần tin vào Thiên Chúa. Đối với những người tin, Thiên Chúa ở trong sự khởi đầu, còn đối với các nhà vật lý thì Thiên Chúa là cuối cùng của sự cân nhắc… Không phải ngẫu nhiên mà các nhà tư tưởng lớn của các thời đại đều tin có linh hồn”.

Erwin Rudolf Josef Alexander Schrödinger

Trước khi có máy vi tính, có một kiểu mẫu đối với nguyên tử và phân tử, điều này cho thế giới một điều gì đó gọi là “cơ chế sóng cuối cùng”. Một số người nói rằng việc áp dụng cơ chế lượng tử hiện đại là tiền bối đối với kỹ thuật như chúng ta biết ngày nay.

Erwin Schrödinger là nhà vật lý người Áo, sống có trách nhiệm. Ông nói về Thiên Chúa và khoa học: “Tôi rất ngạc nhiên thấy hình ảnh khoa học về thế giới thật ở xung quanh tôi là quá thiếu. Nó có nhiều thông tin thật, đặt kinh nghiệm của chúng ta vào một trật tự rất phù hợp, nhưng lại im lặng về mọi thứ, những thứ tạp nham lại ở gần tâm hồn chúng ta, thực sự là vấn đề đối với chúng ta. Nó không thể cho chúng ta biết về màu đỏ và màu xanh, vị đắng và vị ngọt, nỗi đau và niềm vui thể lý; nó chẳng biết gì về cái đẹp và cái xấu, điều thiện và điều ác, thần linh và vĩnh hằng”.

William H. Bragg

Ông là người Anh, là nhà vật lý, nhà hóa học, và nhà toán học. Ông là người tinh luyện quá trình sử dụng tia X để làm vỡ các tinh thể. Đó là khám phá lớn khiến ông đoạt Giải Nobel.

Ông giải thích về tôn giáo và khoa học: “Nhờ tôn giáo mà có mục đích của con người, nhờ khoa học mà đạt được mục đích. Đôi khi người ta tự hỏi không biết tôn giáo và khoa học có đối lập với nhau hay không. Thế này: theo nghĩa ngón tay cái và các ngón tay trong bàn tay đối lập với nhau. Đó là sự đối lập mà mọi thứ đều nắm bắt được”.

Wernher Von Braun

Bạn có thông minh hơn khoa học gia về rocket?  Kỹ sư không gian Wernher Von Braun là người Mỹ gốc Đức, ông không chỉ là cha đẻ của khoa học về rocket, ông còn là khoa học gia có niềm tin vào Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi thấy khó hiểu về một khoa học gia mà lại không nhận biết sự hiện hữu của Đấng Tối Cao ẩn sau sự hiện hữu của vũ trụ, như vậy thì cũng giống như một thần học gia mà lại từ chối sự tiến bộ của khoa học”.

Rõ ràng khi bạn hỏi: “Các khoa học gia có tin vào Thiên Chúa?”. Trả lời: “Có!”. Đó là sự thật, dù không phải là khoa học gia nào cũng tin như vậy. Nhưng người ta có thể thấy rằng chứng cớ về Thiên Chúa có thật trong thế giới khoa học.

Kha Đông Anh chuyển ngữ từ beliefnet.com

 Nguồn: lamhong.org